Rà soát pháp luật Việt Nam với EVFTA về sở hữu trí tuệ: Khoảng cách thực thi

(BĐT) - Sở hữu trí tuệ (SHTT) là một trong những nội dung có yêu cầu cao trong Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Vậy, làm thế nào để triển khai thực hiện tốt các cam kết này trong khi hiệu quả thực thi quyền SHTT ở nước ta còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu?
EU có yêu cầu cao về thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ảnh: LTT
EU có yêu cầu cao về thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ảnh: LTT

Pháp luật trong nước đa số đã tương thích với các cam kết

Tại Hội thảo Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết về SHTT trong EVFTA do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Đại sứ quán Vương quốc Anh và Bắc Ailen tại Việt Nam tổ chức ngày 1/3, tại Hà Nội, Giám đốc Trung tâm WTO của VCCI, bà Nguyễn Thị Thu Trang – đại diện cho Nhóm rà soát cho biết, hệ thống pháp luật về SHTT của Việt Nam hiện đang thực hiện theo các cam kết về SHTT trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT trong WTO (TRIPS).

Liên minh châu Âu (EU) là đối tác có thế mạnh trong sáng tạo và là nơi xuất khẩu sản phẩm SHTT hàng đầu thế giới, do đó có những đòi hỏi cao hơn WTO về tiêu chuẩn bảo hộ cũng như các biện pháp thực thi quyền SHTT. Điều này thể hiện khá rõ trong kết quả đàm phán chương về SHTT trong EVFTA - một trong những chương lớn nhất của Hiệp định này.

Qua rà soát cho thấy, theo bà Trang, pháp luật của Việt Nam hiện nay đa số đã tương thích, chỉ còn một số ít là chưa tương thích, cần phải điều chỉnh.

Trong đó, pháp luật Việt Nam hiện hành đã tương thích với đa số các cam kết về SHTT trong EVFTA ở cả 03 chế định lớn như: nguyên tắc chung về bảo hộ SHTT, các tiêu chuẩn bảo hộ SHTT và các yêu cầu về biện pháp thực thi tại biên giới. Theo đó, bà Trang cho biết, về nguyên tắc, Việt Nam sẽ không phải điều chỉnh, sửa đổi hay bổ sung bất kỳ nội dung nào của các văn bản pháp luật hiện hành.

Nhóm rà soát cũng chỉ ra 4 nội dung mà pháp luật của Việt Nam chưa tuân thủ, bao gồm: quyền độc quyền công bố đến công chúng của người biểu diễn, nhà sản xuất các bản ghi âm, ghi hình; quy trình và cách thức bảo hộ đối với 169 chỉ dẫn địa lý của EU liệt kê trong EVFTA; cam kết bù đắp thời hạn sáng chế dược phẩm cho những chậm trễ trong cấp phép lưu hành; nguyên tắc suy đoán về quyền của người có tên trên tác phẩm.

Hầu hết các cam kết về sở hữu trí tuệ của EVFTA đều yêu cầu bảo hộ ở mức “hiệu quả” và “thích đáng”, tức là nhấn mạnh đến việc thực thi trên thực tế để bảo đảm quyền của các chủ thể sở hữu trí tuệ được bảo hộ ở mức hợp lý và hiệu quả nhất
Đối với nhóm cam kết trong EVFTA mà pháp luật về SHTT của Việt Nam đã có quy định nhưng chưa hoàn toàn tương thích, Nhóm rà soát chỉ rõ: Một số quyền phải ghi nhận đối với người biểu diễn, nhà sản xuất các bản ghi âm, ghi hình; một số biện pháp bảo hộ chi tiết nhằm chống lại hành vi xâm phạm các biện pháp kỹ thuật bảo vệ quyền hay các thông tin quản lý quyền; một số tiêu chuẩn bảo hộ mới đối với kiểu dáng công nghiệp; một số yêu cầu tăng cường thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong triển khai các biện pháp dân sự trong thực thi quyền SHTT.

Mặc dù vậy, bà Trang cho rằng, những quy định mà pháp luật Việt Nam chưa tuân thủ hoặc chưa hoàn toàn tương thích chỉ là các quy định rất chi tiết mà pháp luật Việt Nam hiện chưa ghi nhận, chứ không phải những chế định hay vấn đề lớn về pháp luật. Đối với các trường hợp pháp luật Việt Nam chưa tuân thủ hoặc không tương thích một phần với cam kết EVFTA, Nhóm rà soát đề xuất, cần điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật chung áp dụng cho mọi chủ thể thay vì xây dựng một văn bản riêng chỉ áp dụng cho EU.

Thực thi quyền bảo hộ SHTT là thách thức lớn nhất

Tuy nhiên, “vấn đề không nằm ở pháp luật hiện tại, mà vấn đề lớn hơn là ở việc thực thi”, bà Trang nhận định.

Bà Trang cho rằng, hầu hết các cam kết về SHTT của EVFTA, đều yêu cầu bảo hộ ở mức “hiệu quả” và “thích đáng”, tức là nhấn mạnh đến việc thực thi trên thực tế để bảo đảm quyền của các chủ thể SHTT được bảo hộ ở mức hợp lý và hiệu quả nhất. Nhiều nghĩa vụ trong EVFTA không đơn thuần chỉ bao gồm nghĩa vụ bảo hộ, mà còn là yêu cầu bảo hộ “đầy đủ” (adequate), “hiệu quả” (effective).

Trong khi đó, theo bà Trang, việc thực thi bảo hộ SHTT ở Việt Nam còn nhiều bất cập, và có lẽ mức độ hiệu quả còn cách khá xa so với yêu cầu. Năng lực và nguồn lực thực thi cũng như việc nhận biết quyền và chủ động thực thi các quyền của các chủ thể quyền là rất hạn chế. Trong khi đó, tiêu chuẩn bảo hộ trong EVFTA và TPP lại rất cao. Do đó, “câu chuyện thực thi chắc chắn sẽ là thách thức lớn”, bà Trang nhận định.

Từ những nhận định trên, Nhóm rà soát khuyến nghị: “Các cơ quan có thẩm quyền cần tập trung vào công tác thực thi trên thực tiễn để đảm bảo thi hành hiệu quả các nghĩa vụ mà pháp luật Việt Nam “đã tương thích”.

Chuyên đề