Nâng hiệu quả kinh tế từ năng suất lao động

(BĐT) - Nâng cao hiệu quả nền kinh tế từ 2 chỉ số này để tạo đà cho bước chuyển sang giai đoạn mới 2016 - 2020 là bài toán đặt ra trong năm 2016.
Năng suất lao động năm 2015 tăng 23,6% so với năm 2010. Ảnh: Tất Tiên
Năng suất lao động năm 2015 tăng 23,6% so với năm 2010. Ảnh: Tất Tiên

Bức tranh tổng quan kinh tế năm 2015 cho thấy, mặc dù nền kinh tế đã có những chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng tỷ trọng giá trị và chất lượng, song nguy cơ tụt hậu vẫn hiện hữu trong năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng. Nâng cao hiệu quả nền kinh tế từ 2 chỉ số này để tạo đà cho bước chuyển sang giai đoạn mới 2016 - 2020 là bài toán đặt ra trong năm 2016.

Năng suất lao động đã cải thiện đáng kể

Theo số liệu nghiên cứu của Tổng cục Thống kê (TCTK) về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, hệ số ICOR giai đoạn 2011 - 2015 ở mức 6,91, giảm nhẹ so với giai đoạn 2006 - 2010 (ở mức 6,96). Theo đánh giá của TCTK, hệ số ICOR giai đoạn 2011 - 2015 giảm so với giai đoạn trước là kết quả bước đầu của chủ trương, chính sách của Nhà nước về việc tái cơ cấu đầu tư, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, lãng phí.

Cũng theo phân tích của TCTK, năng suất lao động xã hội năm 2015 tính theo giá hiện hành của toàn nền kinh tế ước tính đạt 79,3 triệu đồng/lao động, tương đương đạt khoảng 3.657 USD/lao động. Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2015 ước tính tăng 6,4% so với năm 2014. Điều này cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, bình quân giai đoạn 2006 - 2015 tăng 3,9%/năm, trong đó giai đoạn 2006 - 2010 tăng 3,4%/năm; giai đoạn 2011 -2015 tăng 4,2%/năm.

Chênh lệch giữa năng suất lao động của Việt Nam so với Singapore tính theo PPP 2005 tăng từ 62.052 USD năm 1994 lên 92.632 USD năm 2013; tương tự, so với Malaysia tăng từ 21.142 USD lên 30.311 USD; Thái Lan từ 7.922 USD lên 9.314 USD; Indonesia từ 4.104 USD lên 4.408 USD.

Năng suất lao động năm 2015 tăng 23,6% so với năm 2010, tuy thấp hơn so với mục tiêu đề ra là tăng 29% - 32%, nhưng tốc độ tăng năng suất lao động thời kỳ này cao hơn thời kỳ 2006 - 2010 góp phần thu hẹp dần khoảng cách tương đối so với năng suất lao động của các nước ASEAN. Điều này góp phần thu hẹp khoảng cách về năng suất lao động tính theo sức mua tương đương năm 2005 (PPP 2005) giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, cụ thể năng suất lao động của Singapore năm 1994 gấp 29,2 lần năng suất lao động của Việt Nam thì đến năm 2013, khoảng cách này chỉ còn gấp 18 lần; tương tự, khoảng cách giữa năng suất lao động của Malaysia và Việt Nam giảm từ 10,6 lần xuống 6,6 lần; Thái Lan từ 4,6 lần xuống 2,7 lần; Phillippines từ 3,1 lần xuống 1,8 lần; Indonesia từ 2,9 lần xuống còn 1,8 lần. 

Vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực

Tuy nhiên, phân tích của TCTK cũng chỉ ra rằng, năng suất lao động của nước ta hiện nay vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và không đồng đều giữa các ngành và lĩnh vực. Điều đáng quan tâm là tuy khoảng cách tương đối về năng suất lao động đã giảm đáng kể, nhưng ở chiều ngược lại, khoảng cách tuyệt đối (chênh lệch mức năng suất lao động) giữa Việt Nam với các nước ASEAN4 có trình độ phát triển cao hơn gồm Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia lại gia tăng.

Cụ thể, theo tính toán, chênh lệch giữa năng suất lao động của Việt Nam so với Singapore tính theo PPP 2005 tăng từ 62.052 USD năm 1994 lên 92.632 USD năm 2013; tương tự, so với Malaysia tăng từ 21.142 USD lên 30.311 USD; Thái Lan từ 7.922 USD lên 9.314 USD; Indonesia từ 4.104 USD lên 4.408 USD.

Nhận định về nguyên nhân sự gia tăng chênh lệch này, TCTK cho rằng, trước hết là do cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, trong khi năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn thấp, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu; chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động chưa đáp ứng yêu cầu.

Bên cạnh đó, trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập, tăng trưởng chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp còn thấp. Ngoài ra, còn một số “điểm nghẽn” và “rào cản” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính chưa được khắc phục cũng là lý do làm gia tăng chênh lệch. 

Nhận định về xu thế tăng trưởng cũng như những vấn đề đặt ra trong năm 2016 và mở đầu cho giai đoạn tới, Tổng cục trưởng TCTK Nguyễn Bích Lâm dự báo năm 2016, nền kinh tế sẽ đối diện với nhiều khó khăn và thách thức hơn là thuận lợi. Vì vậy, tăng năng suất lao động và tăng chất lượng tăng trưởng vẫn là vấn đề lớn đặt ra nhằm duy trì phát triển ổn định kinh tế vĩ mô và cao hơn nữa là nâng cao hiệu quả nền kinh tế để hướng tới tăng trưởng bền vững trong giai đoạn tới. 

Theo khuyến nghị của ông Nguyễn Bích Lâm, cần thúc đẩy cải cách mạnh mẽ hơn nữa về thể chế cũng như tiến độ tái cơ cấu nền kinh tế, cùng với đó là nâng cao tay nghề và kỹ năng của nguồn nhân lực lao động, chú trọng đầu tư cho khoa học và công nghệ, tái cơ cấu kinh tế…, bởi đây sẽ là những động lực chính để có thể tăng năng suất lao động và năng suất tổng hợp trong năm 2016 cũng như giai đoạn tiếp theo.

Chuyên đề