Để doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh và lan tỏa

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn của Việt Nam cho thấy, doanh nghiệp tư nhân lớn là một trong những lực lượng quan trọng dẫn dắt sự phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE-TOP500) gợi mở nhiều điểm cần xem xét để có ứng xử chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho nhóm doanh nghiệp tư nhân lớn trưởng thành hơn nữa và có vai trò dẫn dắt.
Phân bố theo ngành của VPE-TOP500

Phân bố theo ngành của VPE-TOP500

Số lượng nhỏ, đóng góp lớn

Các doanh nghiệp trong VPE-TOP500 vượt trội so với doanh nghiệp tư nhân (DNTN) nói chung, gấp 83 lần về quy mô lao động, gấp 132 lần về tổng tài sản bình quân, gấp 123 lần về doanh thu thuần, tính trung bình giai đoạn 2016 - 2019. Nhờ đó, nhóm DN này đóng góp lớn vào hoạt động của khu vực DNTN. Bình quân giai đoạn 2016 - 2019, VPE-TOP500 chiếm 0,1% tổng số DNTN nhưng tạo việc làm cho 10,4% lao động, chiếm 13% tổng tài sản và tạo ra 15,8% doanh thu thuần. Vì thế, đây chính là lực lượng doanh nghiệp dẫn dắt, tạo ảnh hưởng trên thị trường và kết quả hoạt động của nhóm DN này có thể coi như hàn thử biểu của khu vực DNTN.

Quy mô của VPE-TOP500 tăng nhanh hơn các nhóm DN khác với tốc độ tăng trưởng tài sản khoảng 15,4%/năm, doanh thu thuần 11,7%/năm (khối DNTN còn lại tăng 5,6%/năm và 6,6%/năm) trong giai đoạn 2016 - 2019. Tuy nhiên, năng suất lao động (NSLĐ) của VPE-TOP500 không tăng nhanh như quy mô, cho thấy nhóm DN lớn đang phát triển dựa trên mở rộng sản xuất hơn là theo chiều sâu.

Cụ thể, NSLĐ của VPE-TOP500 chỉ tăng khoảng 5,3%/năm, không quá vượt trội so với khối DNTN còn lại (4,6%/năm) và thấp hơn DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và DN nhà nước. Mặc dù vậy, 500 DN tư nhân lớn này có nền tảng tăng trưởng năng suất dài hạn tốt hơn với tỷ lệ tự phát triển máy móc, công nghệ, tỷ lệ tự động hóa, số hóa cao hơn các DNTN còn lại.

Về phân bố theo địa phương, gần một nửa trong danh sách 500 DNTN lớn tập trung ở hai trung tâm kinh tế lớn là TP.HCM và Hà Nội và các địa phương có vai trò động lực kinh tế như Bình Dương, Đồng Nai, Hưng Yên, Bắc Ninh. Về ngành, các doanh nghiệp lớn của Việt Nam ưa chuộng ngành công nghiệp chế biến chế tạo, tài chính, thương mại (bán buôn và bán lẻ), bất động sản và xây dựng.

Dù vậy, tỷ lệ vào - ra khỏi danh mục 500 DNTN lớn là khá cao, cho thấy sự không ổn định của thị trường Việt Nam và sự thiếu bền vững, ổn định của nhóm DN này. Cụ thể, chỉ có hơn 50% số DN trong danh sách này giữ vững vị trí trong nhóm trong giai đoạn 2016 - 2020. Trung bình trên 20% số DN có mặt trong danh mục năm nay không còn xuất hiện ở năm sau và khoảng 10% chỉ xuất hiện duy nhất một lần. Nhóm ngành dịch vụ có biến động nhiều nhất.

Báo cáo VPE-TOP500 do Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Viện Konrad - Adenaeur - Stiftung Vietnam (KAS) thực hiện và công bố tháng 8/2022. Danh sách VPE-TOP500 dựa trên ba tiêu chí, gồm: quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu thuần tính theo số liệu điều tra DN năm 2019 của Tổng cục Thống kê (điều tra năm 2020).

Băn khoăn tác động lan tỏa

Các DN trong danh sách VPE-TOP500 có liên kết khá tốt với các DN trong nước nói chung. DN trong tỉnh và trong vùng là nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào của hơn 3/4 số DNTN còn lại. Trong khi đó, VPE-TOP500 có phạm vi nhà cung cấp rộng hơn đáng kể và tỷ lệ DN VPE-TOP500 nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cũng như máy móc thiết bị cao gấp gần 4 lần khối DNTN còn lại.

VPE-TOP500 có tác động lan tỏa về năng suất và lương tới các DNTN còn lại, song có thể tạo ra tác động chèn lấn nhất định với nhóm DN này. Khi quy mô của khối VPE-TOP500 tăng khoảng 1% thì NSLĐ của DNTN cùng ngành giảm đi 0,9%, mặc dù nhỏ nhưng có dấu hiệu của chèn lấn. DNTN khác cùng ngành có thể bị ảnh hưởng tiêu cực do cạnh tranh lao động, nguồn lực và thị trường với VPE-TOP500. Thực tế cho thấy, các DN lớn thường lấn át các DN nhỏ trong việc tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ từ Nhà nước, và trong nhiều năm qua, các DN nhỏ ít tiếp cận được các hỗ trợ của Nhà nước.

Tác động của VPE-TOP500 và của DN FDI tới DNTN có sự khác biệt đáng kể. Tác động tiêu cực của cạnh tranh do DN FDI tạo ra nhỏ hơn khoảng 3 lần so với VPE-TOP500 (-0,29% so với -0,94%), có thể do DN FDI chủ yếu xuất khẩu nên ít có tác động cạnh tranh trực tiếp với DNTN. Tác động tích cực trong trường hợp DNTN là nhà cung cấp của VPE-TOP500 và DN FDI khá rõ ràng khi tác động của VPE-TOP500 cao hơn khoảng 0,1 điểm % so với DN FDI.

Trong mối quan hệ với người lao động, VPE-TOP500 có ảnh hưởng tới mức lương trung bình của DNTN, nhưng mức độ tác động không đáng kể. Thị phần của VPE-TOP500 tăng 1% làm mức lương của DNTN khác tăng 0,15%. Mức độ tác động của DN FDI là khoảng 0,04%.

Hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp lớn

Phát triển DNTN lớn được coi là một trong những trọng điểm trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia/vùng lãnh thổ trên thế giới. Tại Hàn Quốc, các tập đoàn lớn của Hàn Quốc (chaebol) hình thành gắn với sự can thiệp của Chính phủ vào quá trình công nghiệp hóa giai đoạn đầu. Để thúc đẩy việc chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra chiến lược hỗ trợ các DN hiện có thay vì khuyến khích thành lập DN mới. Tại Đài Loan, các DN lớn thường phát triển từ các DNNVV năng động. Đài Loan có một số chính sách công nghiệp kích thích sự phát triển của DN lớn từ những DNNVV năng động, tập trung vào những DN công nghệ và thông qua Chương trình phát triển công nghệ và Chương trình phát triển khu công nghiệp. Đài Loan cũng thành lập một số viện nghiên cứu và phát triển (R&D) lớn để chuyển giao công nghệ cho DN tư nhân và cung cấp tài chính ban đầu cho các công ty chủ chốt trong lĩnh vực bán dẫn.

Ở Việt Nam, dù DNTN không ngừng gia tăng, nhưng nhóm DNTN lớn chưa trở thành lực lượng hùng mạnh như kỳ vọng. Chưa có nhiều DNTN lớn đạt được tầm cỡ thế giới. Một số DNTN lớn đã xuất hiện, nhưng số lượng chưa nhiều và các thương hiệu Việt Nam vẫn có giá trị thấp hơn các thương hiệu của nhiều quốc gia Đông Nam Á. DNTN quy mô nhỏ và vừa còn gặp nhiều trở ngại (khách quan và chủ quan) trong quá trình phát triển.

Do đó, cần thiết phải có những chính sách cụ thể hơn nữa để Việt Nam xây dựng được lực lượng DNTN lớn, phát triển ổn định, chống chịu được các cú sốc lớn từ bên ngoài, giúp nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.

Các chính sách với DN trong thời gian tới cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng không chỉ tạo thuận lợi với DN trong gia nhập thị trường, mà còn giúp DN trụ vững và tăng trưởng. Đặc biệt, cần khuyến khích các DN lớn đầu tư để cải tạo năng suất, chuyển dần sang tăng trưởng theo chiều sâu.

Bên cạnh đó, cần có chính sách kinh tế thúc đẩy liên kết DN, khuyến khích DN lớn, DN nhà nước, DN FDI liên doanh, liên kết với DN nhỏ và vừa trong nước; đồng thời nâng cao năng lực DN tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

Tại mỗi địa phương, cần khuyến khích và tạo phong trào để xây dựng được các DNTN hàng đầu dựa trên những lợi thế địa phương và vươn tầm hoạt động trên phạm vi cả nước.

Chuyên đề