Ảnh minh họa: LONG THANH |
Thực tế, các NHTM đã rục rịch tăng dần lãi suất huy động trong quý IV-2015, đặc biệt thời điểm cận Tết Bính Thân 2016. Cuộc đua huy động lãi suất trở lên nóng hơn khi các NH lại tiếp tục đẩy tăng lãi suất huy động ngay 2 tuần đầu tiên sau tết. Vậy tại sao lãi suất huy động lại đột ngột nóng dần trong thời gian gần đây?
Tảng băng chìm đang nổi
Như vậy nguyên nhân sâu xa của vấn đề lãi suất trong hệ thống NH là từ việc khó khăn trong phát hành TPCP. Diễn biến năm 2015 cho thấy, Chính phủ đã cấp tập phát hành TPCP trong quý IV. Nếu như 3 quý đầu năm 2015 chỉ mới phát hành được 96.470 tỷ đồng (chỉ bằng 38% kế hoạch năm là 250.000 tỷ đồng), đến cuối năm 2015 đã hoàn tất mục tiêu phát hành với giá trị 256.200 tỷ đồng, tức đã huy động khoảng 160.000 tỷ đồng chỉ trong 3 tháng cuối năm.
Việc giá dầu liên tục sụt giảm trong thời điểm cuối năm 2015 khiến nguồn thu ngân sách gặp phải khó khăn (thâm hụt ngân sách năm 2015 ước tính 7% GDP, theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách-VEPR, vượt quá tỷ lệ cho phép 5% GDP).
Vào tháng 11-2015, Quốc hội phải đồng ý sửa Nghị quyết 78 năm 2014 của Quốc hội, theo đó cho phép phát hành tất cả các kỳ hạn, bao gồm các kỳ hạn ngắn dưới 5 năm. Sự trở lại của kênh trái phiếu 3 năm tạo nên sức hút cho kênh TPCP trong đó kể cả việc khối ngoại trở lại mua ròng. Tất nhiên, Bộ Tài chính phải chấp nhận mức lợi suất cao hơn để hoàn thành mục tiêu huy động vốn. Theo đó, lợi suất trái phiếu kỳ hạn 3 năm hiện đã nằm ở mức 5,5-5,9%/năm so với mức 5,1% hồi cuối năm 2014.
Sự nóng lên của cuộc đua lãi suất huy động hoàn toàn không chỉ do yếu tố mùa vụ (tết). Thực ra từ khi đồng USD tăng giá mạnh hơn 20% kể từ tháng 9-2014 đến nay, dòng vốn quốc tế đã chuyển hướng từ các thị trường mới nổi và cận biên trở về lại Hoa Kỳ, tạo ra sự căng thẳng nguồn vốn ở các thị trường bị rút vốn, trong đó có Việt Nam. Điều này được thể hiện qua một số cú sốc đối với nền kinh tế Việt Nam từ tháng 9-2014.
Thứ nhất, lợi suất TPCP kỳ hạn 5 năm của Việt Nam tăng từ mức 4,8% vào tháng 9-2014 lên 6,5-6,6%/năm ở thời điểm hiện nay. Đi kèm là hiện tượng khối ngoại bán ròng liên tục 8 tháng liên tiếp (tháng 1 đến tháng 8-2015). Thứ hai, thị trường chứng khoán liên tục chứng kiến những đợt bán ròng của khối ngoại trong quý IV-2014 và quý III-2015. Thứ ba, Trung Quốc phá giá đồng NDT vào tháng 8-2015 khi quốc gia này bị rút vốn khiến cho Việt Nam cũng phải điều chỉnh theo (VNĐ mất giá khoảng 3%). Khi Trung Quốc bị thoái vốn vào thời điểm cuối năm 2015 và 2 tháng đầu năm 2016, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng bị ảnh hưởng.
Như vậy, đợt nóng lên của lãi suất huy động trong hệ thống NH Việt Nam thời gian gần đây, ngoài việc do Bộ Tài chính hút hơn 160.000 tỷ đồng qua kênh TPCP, còn phải đặt nghi vấn về khả năng rút vốn của dòng tiền nóng ra khỏi Việt Nam. Nếu như giả thiết trên là sự thực, Việt Nam sẽ chứng kiến đồng thời cả những cú sốc tỷ giá kèm theo lãi suất tăng cao trong thời gian tới. Điều này đã từng diễn ra vào năm 2010-2011, khi Việt Nam gặp phải đồng thời cú sốc tỷ giá (USD tăng giá hơn 16% so với VNĐ) lẫn lãi suất huy động tăng vọt (chạm ngưỡng 15-17%/năm) do lạm phát cao, khiến dòng vốn quốc tế rút đi.
Bóng đen phía sau cuộc đua lãi suất
Năm 2016, Việt Nam đặt mục tiêu huy động 220.000 tỷ đồng TPCP. Theo kế hoạch, quý I-2016, Kho bạc Nhà nước sẽ phát hành đến 76.000 tỷ đồng (trong đó có đến 45% là trái phiếu kỳ hạn 5 năm trở lên). Cần lưu ý, theo thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), riêng quý I-2016, lượng TPCP đáo hạn đã lên tới hơn 55.000 tỷ đồng, chiếm tới hơn 50% tổng lượng đáo hạn trong năm 2016. Nhưng trong 2 tháng đầu năm 2016, mới chỉ phát hành được 32.568 tỷ đồng. Như vậy, tháng 3 phải huy động hơn 43.000 tỷ đồng mới hoàn thành kế hoạch quý I. Rõ ràng, hoạt động huy động vốn đòi hỏi một sức ép lớn trong tháng 3 và điều này có thể gây ra sự thiếu hụt nguồn vốn cho hệ thống NH trong quý II.
Mặc dù NHNN đang có kế hoạch sửa đổi Thông tư 36 để nới room cho khối ngoại trong việc mua TPCP kết hợp với bơm tiền qua kênh thị trường mở (OMO), nhưng lực cầu của khối ngoại là một dấu hỏi trong bối cảnh dòng tiền đang có dấu hiệu bị rút đi khỏi các thị trường mới nổi và cận biên bao gồm Việt Nam.
Đồng USD được dự báo vẫn mạnh lên trong tháng 3 và tháng 4-2016, bất kể FED không tăng lãi suất. Với chính sách lãi suất âm nhiều nước ở châu Âu và Nhật Bản đang sử dụng, sẽ khiến cho đồng USD mạnh lên. Vào ngày 10-3-2016, NH Trung ương châu Âu (ECB) sẽ có cuộc họp chính sách tiền tệ và theo dự báo của Business Insider, khả năng ECB sẽ cắt tiếp 10 điểm cơ bản từ mức lãi suất tiền gửi âm 0,3% ở hiện tại. Mặc dù giá dầu đã tăng mạnh gần 30% trong tháng qua, nhưng số liệu lạm phát của khu vực ECB vẫn cho thấy lạm phát tháng 2 tiếp tục giảm 0,45 điểm cơ bản xuống còn 1,36%. Giảm phát khiến kỳ vọng ECB hạ lãi suất là khả năng lớn. Bên cạnh đó, áp lực làm hạ giá đồng EUR để xoa dịu khó khăn từ việc Anh đang “đòi” rời khỏi EU.
Trong khi đó, Trung Quốc vẫn tiếp tục đối diện với nguy cơ thoái vốn mạnh mẽ hơn khi chưa có dấu hiệu về sự bình ổn trong nền kinh tế và cả hệ thống NH của nước này. Từ đầu quý IV-2015 đến nay, trung bình mỗi tháng dòng vốn rút khỏi Trung Quốc 100 tỷ USD. Mặc dù Trung Quốc vừa bơm tiền khủng trong 2 tháng đầu năm 2016, nhưng đồng NDT vẫn mất khoảng 1%. Hệ thống NH của Trung Quốc cũng đang đứng trước sức ép căng thẳng về nguồn vốn, nhưng do sức ép về tỷ giá, nên cũng không thể giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc vì nó sẽ càng tạo ra áp lực mất giá cho đồng NDT (vào cuối tháng 2 Trung Quốc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc 0,5% xuống còn 17%). Vào đầu tháng 3, Trung Quốc vừa mới bị Moody hạ triển vọng tín nhiệm từ ổn định xuống tiêu cực.
Khi các quốc gia ở châu Âu và Nhật Bản đang thực thi chính sách lãi suất âm nhằm hỗ trợ cho sự mạnh lên của đồng USD, hàm ý kịch bản có thể diễn ra sự mất giá của các đồng tiền khác như EUR hay NDT. Dòng tiền quốc tế có thể trở về Hoa Kỳ sẽ tạo ra kịch bản dòng vốn rút ra khỏi các thị trường mới nổi. Điều này khiến cho VNĐ bị mất giá và lãi suất huy động của Việt Nam phải tăng lên.