Thuận xu thế thời đại, nâng tầm vị thế quốc gia

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã chọn phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng bao trùm, nhanh và bền vững. Một trong những “điểm tựa” được lựa chọn để hiện thực hóa mục tiêu này là phát triển khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST), chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn.
Vùng Đông Nam Bộ có vai trò đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, trở thành trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo có tính cạnh tranh cao trong khu vực. Ảnh: Đông Giang
Vùng Đông Nam Bộ có vai trò đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, trở thành trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo có tính cạnh tranh cao trong khu vực. Ảnh: Đông Giang

Chia sẻ với Báo Đấu thầu, ông Đinh Trọng Thắng, Vụ trưởng Vụ Quản lý quy hoạch thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định, hướng đi nhất quán, thuận xu thế, hợp thời đại này sẽ giúp Việt Nam từng bước hiện thực hóa khát vọng phát triển.

Ông Đinh Trọng Thắng

Ông Đinh Trọng Thắng

Việc phát triển KHCN, ĐMST… được thể hiện như thế nào trong Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (QHTTQG), thưa ông?

Một trong những nội dung quan trọng và xuyên suốt trong QHTTQG là định hướng “Phát triển mạnh mẽ KHCN và ĐMST nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Nội dung này được thể hiện nhất quán trong các quan điểm, mục tiêu, định hướng, giải pháp lớn cho phát triển đất nước nói chung và phát triển các ngành, lĩnh vực nói riêng.

Tại QHTTQG, vấn đề làm chủ công nghệ được đặt ra như một yếu tố then chốt trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao năng lực sản xuất quốc gia để ngày càng cải thiện vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Vai trò của KHCN cũng được nhấn mạnh trong xây dựng mục tiêu và tầm nhìn phát triển quốc gia. Đó là mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng KHCN, ĐMST và chuyển đổi số; đến năm 2050, KHCN và ĐMST sẽ trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu khi Việt Nam trở thành một nước phát triển, thu nhập cao.

QHTTQG xác định rõ định hướng gắn KHCN với ĐMST để có đóng góp thiết thực, giá trị cao cho phát triển kinh tế - xã hội và hướng đến làm chủ công nghệ. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ĐMST quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Hình thành và phát triển trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST quốc gia tại Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có điều kiện.

Cùng với đó, hình thành các cụm liên kết ĐMST trên cơ sở liên kết các tổ chức KHCN với các khu công nghệ cao, công viên công nghệ, trung tâm tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm, các tổ chức nghiên cứu nước ngoài... Đối với các ngành kinh tế quan trọng, QHTTQG xác định các quan điểm, mục tiêu, định hướng gắn kết chặt chẽ với việc nâng cao hàm lượng, giá trị đóng góp của KHCN trong quá trình phát triển. Đơn cử, trong ngành công nghiệp, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao, nhất là điện tử, sản xuất chip bán dẫn, công nghiệp sinh học; các ngành có khả năng tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao và có tác động lan tỏa cao tới các ngành kinh tế khác. Mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%.

Chính phủ ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao, nhất là điện tử, công nghiệp sinh học, sản xuất chip bán dẫn

Chính phủ ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao, nhất là điện tử, công nghiệp sinh học, sản xuất chip bán dẫn

Những định hướng trên được cụ thể hóa như thế nào tại các quy hoạch vùng, thưa ông?

Các định hướng quy hoạch vùng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đều xác định yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng của vùng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả trên cơ sở KHCN và ĐMST. Quy hoạch một số vùng có điều kiện và trình độ phát triển cao hơn (như Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ), xác định rõ vai trò đi đầu, dẫn dắt các vùng khác của cả nước trong tiến trình phát triển này.

Đơn cử, vùng Đông Nam Bộ có vai trò đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, trở thành trung tâm KHCN và ĐMST có tính cạnh tranh cao trong khu vực. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ cao cấp, chất lượng cao. Đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái ĐMST, thúc đẩy các mô hình sản xuất, kinh doanh, các ngành kinh tế mới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển các khu công nghiệp - dịch vụ - đô thị hiện đại và các khu công nghiệp công nghệ cao. Xây dựng mới một số khu công nghệ thông tin tập trung quy mô lớn, hình thành vùng động lực công nghiệp công nghệ thông tin, thu hút đầu tư công nghiệp bán dẫn, sản xuất chip, sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, các sản phẩm Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo.

Nhiều tỉnh, thành đang nỗ lực xây dựng quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Xin ông chia sẻ một số điểm chính về phát triển KHCN và ĐMST trong các quy hoạch tỉnh đã được thông qua gần đây?

Đối với các quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt, tất cả các địa phương trên các vùng đều khẳng định quan điểm về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trên cơ sở tăng cường ứng dụng KHCN và ĐMST; nhiều địa phương xác định KHCN là một khâu đột phá. Quan điểm này được cụ thể hóa thành phương án phát triển các ngành kinh tế theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả, gắn với các ngành, lĩnh vực thế mạnh của địa phương.

Chẳng hạn, Quy hoạch tỉnh Khánh Hòa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhấn mạnh, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng KHCN, nhất là các lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế biển như hải dương học, công nghệ đại dương, công nghệ sản xuất giống thủy sản, công nghệ nuôi trồng và chế biến thủy sản, vaccine và sinh phẩm y tế, ứng dụng công nghệ vào dịch vụ du lịch... Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh định hướng mở rộng và đẩy nhanh tốc độ ứng dụng những thành tựu của KHCN, đặc biệt là công nghệ thông tin đối với các lĩnh vực kinh tế như: chế biến chế tạo, sản xuất điện, khai khoáng, du lịch, thương mại, logistics, tài chính, kinh tế biển, cảng biển... Quy hoạch tỉnh Thái Nguyên đưa ra mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại của vùng Thủ đô Hà Nội, trong đó chú trọng phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với các nhóm sản phẩm công nghiệp hiện đại, chuyên môn hóa cao tại các công đoạn có giá trị cao trong chuỗi giá trị. Ngoài ra, ngành nông nghiệp các tỉnh cũng đều được định hướng phát triển theo hướng sản xuất an toàn, hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số...

Theo định hướng chung, để phát triển KHCN ở cấp địa phương, các quy hoạch nhấn mạnh giải pháp tăng cường đầu tư kinh phí, phấn đấu đạt mức 2% tổng chi ngân sách địa phương dành cho hoạt động này. Bên cạnh đó là đẩy mạnh việc đa dạng hóa các nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển KHCN và ĐMST. Tăng cường liên kết, hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp trong các giai đoạn từ ý tưởng, nhu cầu nghiên cứu, cho đến triển khai, ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Phát triển các tổ chức KHCN, doanh nghiệp KHCN; xây dựng các trung tâm khởi nghiệp, ĐMST tại các địa phương.

Để phát triển mạnh mẽ KHCN và ĐMST, giải pháp huy động nguồn lực, cơ chế chính sách... là gì, thưa ông?

Định hướng căn bản là ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho các tổ chức KHCN nghiên cứu, chuyển giao các sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực, sản phẩm có tiềm năng phát triển, công nghệ cao để tạo ra các đột phá trong tăng trưởng; đầu tư phát triển đội ngũ nhân lực đạt trình độ cao, tiệm cận với tiêu chuẩn ở các nước phát triển. Lựa chọn và tập trung hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành, lĩnh vực then chốt; đầu tư thích đáng đối với các cơ sở nghiên cứu KHCN trọng điểm, đầu ngành.

Cùng với đó là thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học để chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Tiếp tục có cơ chế, chính sách ưu đãi, đầu tư và khai thác có hiệu quả các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin, trung tâm ĐMST cấp quốc gia theo mô hình tiên tiến trên thế giới. Phát huy vai trò của các quỹ về phát triển khoa học và đổi mới công nghệ trong thúc đẩy nghiên cứu, khởi nghiệp ĐMST, ứng dụng và chuyển giao công nghệ.

Chuyên đề