Ảnh Internet |
Theo báo cáo thị trường TPDN quý III vừa được SSI Research công bố, loại trừ các trái phiếu ngân hàng và định chế tài chính khác khi hầu hết phát hành đều không có tài sản đảm bảo, các TPDN còn lại được phát hành trong 9 tháng đầu năm 2021 có 36,2% được đảm bảo bằng một phần tài sản/BĐS và một phần là cổ phiếu/cổ phần; 20,4% được bảo đảm bằng BĐS; 9,5% được đảm bảo bằng tài sản; 6,7% được đảm bảo hoàn toàn bằng cổ phiếu và 17,1% là không có tài sản đảm bảo.
Trong nhóm trái phiếu BĐS, tài sản đảm bảo chủ yếu là các dự án đầu tư, tài sản sẽ hình thành trong tương lai hoặc cổ phiếu/cổ phần của chính doanh nghiệp phát hành. Cụ thể, nếu tính các trái phiếu BĐS được đảm bảo một phần bằng cổ phiếu, con số này là hơn 140 nghìn tỷ đồng - chiếm 67% tổng lượng trái phiếu BĐS phát hành 9 tháng 2021.
Tỷ trọng các doanh nghiệp phát hành không có tài sản đảm bảo cũng tương đối cao, chiếm 15,8% tổng lượng phát hành, trong đó có một số lớn doanh nghiệp không niêm yết nên khả năng tiếp cận các thông tin tài chính của các doanh nghiệp này bị hạn chế. Đây sẽ là rủi ro lớn cho các nhà đầu tư trong trường hợp dòng tiền của các doanh nghiệp bất động sản không được đảm bảo nếu hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn và sẽ không trả được nợ gốc, lãi trái phiếu cho nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, SSI Research lưu ý rằng việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ gốc lãi trái phiếu bằng cổ phiếu không có nhiều ý nghĩa vì khi sự kiện vi phạm xảy ra, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì giá trị cổ phiếu dùng làm tài sản đảm bảo (thường là của tổ chức phát hành hoặc liên quan đến tổ chức phát hành) cũng sẽ sụt giảm nghiêm trọng.
Trong quý III/2021, các doanh nghiệp BĐS tiếp tục duy trì vị thế dẫn đầu khi phát hành 85,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu, giảm khoảng 4% so với quý II và cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt, sự kiện “Evergrande” cũng không làm thị trường trái phiếu BĐS kém sôi động khi chỉ tính riêng trong tháng 9, tổng giá trị trái phiếu BĐS phát hành là 30,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 36% tổng lượng phát hành trong Quý.
Nguồn: HNX, SSI tổng hợp |
Các doanh nghiệp phát hành nhiều nhất trong quý vừa qua là Vingroup, Novaland, Osaka Garden, Hưng Thịnh Land. Nếu loại trừ trái phiếu phát hành quốc tế của Vinpearl và Novaland, lãi suất bình quân các trái phiếu BĐS trong quý III/2021 là 10,34%/năm, tăng 2 bps so với quý II/2021 trong khi kỳ hạn bình quân là 4,1 năm. Tính chung 9 tháng 2021, các doanh nghiệp BĐS phát hành 201 nghìn tỷ đồng trái phiếu với lãi suất bình quân là 10,36%/năm, thấp hơn 30 bps so với bình quân năm 2020 và kỳ hạn bình quân ở mức 3,8 năm. Nhìn chung, kỳ hạn bình quân của trái phiếu BĐS trong 2 năm gần đây là khoảng 3,5 - 4 năm, do vậy áp lực trả nợ gốc sẽ tăng dần trong giai đoạn 2023 - 2025.
Điểm đáng chú ý là tỷ lệ các doanh nghiệp BĐS chưa niêm yết tham gia hoạt động huy động vốn trên thị trường trái phiếu là tương đối cao so với các ngành khác. Cụ thể, trong 9 tháng đầu năm, tổng giá trị phát hành của các doanh nghiệp BĐS niêm yết chỉ khoảng 58 nghìn tỷ đồng, tức chiếm khoảng 27% tổng TPDN BĐS phát hành, trong khi tỷ lệ đó là 70% cho các ngành còn lại. Do vậy, nhà đầu tư sẽ gặp nhiều khó khăn khi muốn tiếp cận các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là khi thị trường TPDN chưa có cơ quan độc lập đánh giá xếp hạng tín nhiệm trái phiếu.
Cũng trong quý III/2021, khối lượng trái phiếu ngân hàng (NH) phát hành thành công đạt 65,2 nghìn tỷ đồng, giảm 6,8% so với quý II nhưng tăng tới 37,9% so với cùng kỳ 2020. Tính chung 9 tháng đầu năm 2021, có 20 NHTM phát hành 136,4 nghìn tỷ đồng (tăng 42,6% so với cùng kỳ) trái phiếu với kỳ hạn bình quân 4,13 năm và lãi suất bình quân 4,5%/năm.
Nhu cầu các NHTM cần tăng vốn cấp 2 nhằm đáp ứng Basel 2 và bổ sung nguồn vốn trung hạn (hỗ trợ hoạt động kinh doanh và đáp ứng thông tư quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn) tăng trong giai đoạn qua giúp thị trường trái phiếu NH sôi động. Bên cạnh đó, Thông tư 01/2021/TT-NHNN gỡ bỏ quy định của Thông tư 34/2013/TT-NHNN cho phép các TCTD được mua trái phiếu phát hành trên thị trường sơ cấp của các TCTD khác, một số lượng lớn bên mua TPDN cho NH phát hành đến từ các NHTM khác.
Cụ thể, nhà đầu tư (NĐT) mua trái phiếu NH gồm các NH (37,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 27%); công ty chứng khoán (66,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 48%); tổ chức trong nước (chủ yếu là công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư chứng khoán, 30,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 22,3%) và cá nhân (3,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,5%). NĐT cá nhân thường chỉ mua các trái phiếu tăng vốn cấp 2 có kỳ hạn dài (7 - 15 năm), hầu hết có lãi suất thả nổi, năm đầu dao động từ 6,2 - 7,9%/năm. Các trái phiếu này thường kèm theo quyền mua lại trước hạn của tổ chức phát hành sau 2 - 5 năm (hoặc 10 năm với trái phiếu 15 năm), nếu không thực hiện lãi suất các kỳ cuối sẽ tăng rất cao. Trong khi đó, một số lượng lớn các NH và công ty chứng khoán mua trái phiếu kỳ hạn 1 - 3 năm có lãi suất cố định từ 2,6 - 4,3%/năm, trả lãi hàng năm.