Việt Nam làm gì trong “cơn bão” lạm phát?

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Cơn bão giá cả leo thang hình thành từ giữa năm 2021 đã kéo dài hơn dự báo, “càn quét” và đẩy kinh tế thế giới năm 2022 rơi vào thời kỳ lạm phát cao nhất trong 40 năm qua. Tại Việt Nam, với các giải pháp điều hành hiệu quả, lạm phát năm 2022 đã được kiểm soát ở mức 3,15%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội thông qua.
CPI đã được kiểm soát ở mức thấp hơn mục tiêu Quốc hội thông qua trong năm 2022, nhưng sang năm 2023, lạm phát phải đối mặt với nhiều áp lực mới
CPI đã được kiểm soát ở mức thấp hơn mục tiêu Quốc hội thông qua trong năm 2022, nhưng sang năm 2023, lạm phát phải đối mặt với nhiều áp lực mới

Tuy nhiên, áp lực lạm phát năm 2023 đối với kinh tế Việt Nam rất lớn, đòi hỏi Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp chủ động, trách nhiệm, linh hoạt trong thực thi chức trách để chỉ tiêu này cả năm khoảng 4,5%.

Lạm phát: Nỗi ám ảnh của năm 2022

Ngay khi đại dịch được khống chế, chính phủ các nước nỗ lực thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng, nhờ đó, kinh tế thế giới đã thoát khỏi suy thoái. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), kể từ khi đại dịch diễn ra, chính phủ các nước đã chi số tiền kỷ lục, khoảng 16,9 nghìn tỷ USD, trong đó Mỹ chiếm 1/3. Kết quả là năm 2021 kinh tế thế giới đã phục hồi ngoạn mục với tăng trưởng đạt 5,9%.

Tuy vậy, sự phục hồi tăng trưởng cao và quá nhanh bằng việc mở rộng chính sách tài khoá và tiền tệ đã đẩy kinh tế thế giới rơi vào thời kỳ lạm phát cao nhất trong 40 năm qua. Với kinh tế Mỹ, lạm phát bùng lên mức 9,1% vào tháng 6/2022 - mức cao nhất kể từ năm 1981, sau đó dần hạ nhiệt, xuống mức 7,1% vào tháng 11/2022. Tại khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), lạm phát liên tục tăng cao, leo lên mức hai con số 10,7% vào tháng 10/2022, là tháng thứ 12 tăng liên tiếp, sau đó giảm xuống mức 10% trong tháng 11/2022.

Dự báo lạm phát toàn cầu năm 2022 đạt đỉnh khoảng 7,7%, gấp hơn 2 lần so với giai đoạn trước; năm 2023 lạm phát thế giới sẽ giảm dần, nhưng vẫn cao hơn khá nhiều so với mức lạm phát mục tiêu tại hầu hết các quốc gia. Tình trạng lạm phát chưa được kiểm soát đang là vấn đề đau đầu đối với chính phủ và ngân hàng trung ương nhiều nước trên thế giới. Để kìm hãm và đưa lạm phát về sát mức mục tiêu, từ tháng 3/2022 đến nay, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã 7 lần tăng lãi suất với tốc độ tăng nhanh nhất kể từ năm 1980, đưa lãi suất liên bang lên mức 4,25% - 4,5%, mức cao nhất kể từ tháng 1/2008. Trên quy mô toàn cầu, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và hầu hết ngân hàng trung ương các nước cũng đang thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất để kiềm chế và đưa về mức lạm phát mục tiêu.

Với dự báo lạm phát năm 2023 sẽ giảm nhưng vẫn ở mức cao hơn rất nhiều so với mục tiêu của các ngân hàng trung ương và vẫn là rủi ro lớn nhất với nhiều nền kinh tế, các quốc gia tiếp tục tăng lãi suất, thực hiện chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt. Thị trường tài chính và tiền tệ thế giới tiếp tục tình trạng rủi ro và bất ổn. Xung đột tại Ukraine chưa có hồi kết sẽ ảnh hưởng đến giá xăng dầu, chi phí logistics, chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu dùng, gây nguy cơ mất ổn định an ninh năng lượng, lương thực; các hiện tượng thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu cũng gây thêm áp lực lên vấn đề năng lượng toàn cầu.

Giá năng lượng, lương thực tiềm ẩn nhiều nguy cơ biến động phức tạp, khó lường, mặc dù giá của hai nhóm mặt hàng này đã giảm nhưng vẫn ở mức cao. Dự báo giá dầu thô năm 2023 sẽ ở mức khoảng 98 USD/thùng - cao hơn 40% so với năm 2021; chỉ số giá lương thực cao hơn khoảng 8%. Nhiều đánh giá cho rằng, giá năng lượng, lương thực sẽ tiếp tục biến động mạnh, nhất là trước diễn biến phức tạp, kéo dài của khủng hoảng Nga - Ukraine.

Năm 2023, Trung Quốc đang dần loại bỏ chính sách Zero-Covid và mở cửa trở lại nền kinh tế. Khi nền kinh tế khởi sắc, Trung Quốc sẽ tăng nhập khẩu dầu thô, nguyên vật liệu sản xuất, hàng hoá công nghiệp, đẩy giá nguyên liệu thô thế giới tăng lên, gây áp lực tăng giá nhiều loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ khác, khi đó lạm phát toàn cầu sẽ bật tăng. Nếu Trung Quốc mở cửa hoàn toàn vào giữa năm 2023, Bloomberg ước tính, giá năng lượng sẽ tăng 20% và chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ có nguy cơ tăng vọt lên 5,7% vào cuối năm 2023.

Trong bối cảnh đó, năm 2023, chính phủ các nước đặt ưu tiên hàng đầu là kiềm chế và kiểm soát lạm phát, sẵn sàng đánh đổi tăng trưởng để kiểm soát lạm phát. Đối với chính sách tiền tệ, các nước tiếp tục nâng lãi suất để kiểm soát lạm phát và ngăn ngừa lạm phát kỳ vọng. Hiện đã có khoảng 90 quốc gia nâng lãi suất, với số lần nâng lãi suất cao nhất kể từ năm 1970. Fed khẳng định sẽ tiếp tục tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát, dự kiến Fed sẽ đưa lãi suất cơ bản lên mức trên 5% trong năm 2023, bất chấp rủi ro suy giảm tăng trưởng.

Đối với chính sách tài khóa, các biện pháp hỗ trợ có mục tiêu cho những đối tượng thu nhập thấp, dễ bị tổn thương được tập trung thực hiện. Trong năm 2022, Chính phủ Đức công bố gói 63 tỷ euro để trợ giá điện và phương tiện công cộng, Chính phủ Anh ban hành gói trợ cấp trị giá 150 tỷ bảng cho các hộ gia đình, doanh nghiệp. Chính sách tài khoá này dự báo tiếp tục thực hiện trong năm 2023.

Để ứng phó với đồng USD tăng giá, bên cạnh việc nâng lãi suất, các nước sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp mạnh nhằm chặn đà giảm giá của đồng nội tệ, đồng nghĩa với ngăn chặn tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và USD tăng cao.

Ứng phó với thách thức lạm phát cao

Chính phủ cần khẩn trương chỉ đạo, giám sát việc triển khai thực hiện, đưa các chính sách, giải pháp đã ban hành vào cuộc sống. Chính sách và giải pháp tốt nhưng chậm triển khai thực hiện vẫn là chính sách và giải pháp, nhưng không còn tác dụng.

Năm 2022, mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức khó lường, kinh tế nước ta vẫn đạt được những kết quả rất tích cực, tốc độ tăng trưởng cao, giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, lạm phát bình quân cả năm 2022 thấp hơn mục tiêu Quốc hội thông qua.

Tuy nhiên, bức tranh lạm phát năm 2023 có nhiều nét đáng quan tâm, áp lực lạm phát đến từ nhiều yếu tố. Đó là: áp lực cầu kéo do tổng cầu tăng đột biến từ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong thực tế đứt gãy chuỗi cung ứng chưa được khắc phục; áp lực chi phí đẩy do giá nguyên, nhiên, vật liệu thế giới vẫn ở mức cao trong khi kinh tế nước ta nhập khẩu khá nhiều nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất; áp lực tăng giá từ các loại hàng hoá, dịch vụ chiến lược do Nhà nước quản lý như điện, y tế, giáo dục; tăng lương cơ sở có hiệu lực từ ngày 1/7/2023; áp lực từ tăng tỷ giá hối đoái giữa VND và USD. Ngoài ra, thiên tai, dịch bệnh có thể gây tăng giá lương thực, thực phẩm tại một số địa phương bị ảnh hưởng, tác động làm gia tăng lạm phát.

Để kiểm soát lạm phát mục tiêu 4,5% năm 2023, Chính phủ cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý nhằm cắt giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, đảm bảo đủ nguồn cung đáp ứng tổng cầu tăng, giảm áp lực lạm phát. Bên cạnh đó, thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ linh hoạt, phù hợp, giữ ổn định vĩ mô; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt để hạn chế tối đa nhập khẩu lạm phát, đồng thời giữ ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ.

Mặt khác, các cơ quan chức năng cần minh bạch và đơn giản hoá quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả, thúc đẩy cạnh tranh trong nước đối với lĩnh vực logistics, thương mại bán buôn và bán lẻ để giảm chi phí thương mại trong nước và quốc tế; giữ năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hoá Việt trên thị trường thế giới.

Các cơ quan chức năng cũng cần đưa ra dự báo sớm các mặt hàng có thể thiếu hụt trong dài hạn để có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này, chủ động nguồn nguyên vật liệu, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Ở khía cạnh khác, Chính phủ cần có kế hoạch, giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Trong đó, Bộ Công Thương nắm bắt kịp thời giá xăng dầu thế giới, nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn… Đối với điện – một mặt hàng năng lượng quan trọng và không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng, Bộ Công Thương cần dự báo, xây dựng kế hoạch, giải pháp để cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào đối với từng quý trong năm 2023.

Các cơ quan chức năng cần đánh giá tác động của việc tăng giá điện, dịch vụ y tế, giáo dục đối với lạm phát và tăng trưởng kinh tế để quyết định mức độ và thời điểm điều chỉnh giá điện, giá các loại dịch vụ do Nhà nước quản lý, tránh gây cộng hưởng lạm phát chi phí đẩy, tạo ra lạm phát kỳ vọng của nền kinh tế.

Các cơ quan truyền thông cần thực hiện hiệu quả hoạt động truyền thông nhằm thông tin kịp thời, chính xác và rõ ràng về các chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý từ thông tin thất thiệt gây ra. Chính phủ cần có chính sách, giải pháp hỗ trợ có mục tiêu cho những người có thu nhập thấp, dễ bị tổn thương; thực hiện hiệu quả công tác an sinh xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển của đất nước.

Đối với khu vực doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa, dự báo các loại nguyên, nhiên, vật liệu có thể thiếu hụt trong ngắn hạn để có giải pháp nhập khẩu kịp thời, cắt giảm chi phí sản xuất… Các doanh nghiệp cần đa dạng nguồn cung, đảm bảo nguồn cung của từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành không phụ thuộc vào một thị trường, một khu vực.

Doanh nghiệp phải chủ động nắm bắt, cập nhật thông tin và dự báo động thái thị trường, nhất là xu hướng, mức độ và lộ trình tăng giá, tăng lãi suất để chủ động trong xây dựng, điều chỉnh và thực hiện kế hoạch tài chính, kinh doanh. Nắm bắt và đánh giá cách các “đối thủ cạnh tranh” phản ứng với tình huống, đồng thời giám sát tình hình sức khỏe và chất lượng hoạt động của các nhà cung cấp nguyên vật liệu sản xuất.

Để ứng phó với khủng hoảng năng lượng, không phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, tránh các tác động từ vấn đề địa chính trị toàn cầu không thể đoán trước, doanh nghiệp cần tập trung đầu tư chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, cắt giảm chi phí do giá năng lượng tăng cao, tích tụ tăng lợi nhuận, cải thiện hình ảnh thương hiệu, gia tăng lợi thế cạnh tranh và thu hút các nhà đầu tư. Doanh nghiệp có thể tính đến việc chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng xanh như một cách để tạo sự khác biệt cho thương hiệu của mình trên thị trường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần đầu tư về công nghệ, nhân sự và các lĩnh vực khác để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng mang lại lợi ích lâu dài.

Cùng với việc thực hiện các giải pháp nêu trên, Chính phủ cần khẩn trương chỉ đạo, giám sát việc triển khai thực hiện, đưa các chính sách, giải pháp đã ban hành vào cuộc sống. Chính sách và giải pháp tốt nhưng chậm triển khai thực hiện vẫn là chính sách và giải pháp, nhưng không còn tác dụng.

Chuyên đề