Giấc mơ kinh tế dang dở của ASEAN

Sự khác biệt về trình độ phát triển được cho là nguyên nhân chính khiến các nước Đông Nam Á khó tạo thành một khối kinh tế vững mạnh.

Ngày 8/8/1967, Hiệp hội Các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập, với 5 thành viên và dân số tổng cộng chỉ 184 triệu người. Các nước khi đó phần lớn chưa phát triển. Kể cả Singapore - nước giàu nhất, cũng chỉ có GDP đầu người 600 USD, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho biết. Indonesia - nước lớn nhất và nghèo nhất, có GDP bình quân chỉ 56 USD. Gần ba phần tư dân số ASEAN sống tại nông thôn.

Sau nửa thế kỷ, ASEAN có thêm 5 thành viên mới, dân số cũng gấp 3 - lên 625 triệu người. Các nước cũng có bước tiến lớn về kinh tế. Singapore giờ đã là nền kinh tế phát triển. Thái Lan và Malaysia có thu nhập trung bình. Philippines là một trong những nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Indonesia trở thành quốc gia quan trọng nhờ dân số khổng lồ. Tốc độ tăng trưởng nhanh cũng có thể biến Việt Nam thành hình mẫu cho phát triển kinh tế và xóa nghèo.

Dù vậy, Nikkei cho rằng nếu đánh giá về thành tựu của ASEAN, nhiều quan điểm trái chiều sẽ xuất hiện. Giới chức sẽ ví ASEAN như cốc nước đầy một nửa. Còn khu vực tư nhân lại cho rằng nó vẫn vơi một nửa.

Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một ví dụ. AEC thành lập năm 2015, được coi là bước đầu tiên trong quá trình hội nhập kinh tế của khu vực. Nó sẽ giúp ASEAN đủ sức cạnh tranh với các thị trường lớn như EU, Mỹ, hay các nước láng giềng như Trung Quốc và Ấn Độ.

Giấc mơ kinh tế dang dở của ASEAN ảnh 1

Lãnh đạo các nước ASEAN tại cuộc họp ở Philippines. Ảnh:CNA

Tuy nhiên, trên DW, Avery Poole - chuyên gia từ Đại học Melbourne cho rằng AEC vẫn còn thiếu khung điều tiết chung, khiến ASEAN khó trở thành một người chơi lớn về kinh tế. Poole cho rằng sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế là nguyên nhân chính. Các nước như Singapore hay Brunei có GDP khá cao so với Lào, Campuchia hay Myanmar.

“Dù ASEAN luôn nói về sự thống nhất hay cộng đồng, sự khác biệt lớn về kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa và ngôn ngữ giữa các nước đã sinh ra rào cản với hội nhập kinh tế”, Poole giải thích, “Môi trường chính sách, mức độ can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế, cơ sở hạ tầng và nhiều mặt khác đều rất khác nhau, không như Liên minh châu Âu (EU)”.

Các doanh nghiệp cũng chỉ ra ASEAN chưa thể hoạt động như một thị trường chung hoàn chỉnh, vì các rào cản thuế quan vẫn tồn tại, còn rào cản phi thuế quan vẫn xuất hiện bất chấp AEC. Việc này đã ảnh hưởng đến thương mại nội khối. Hoạt động này tại ASEAN vẫn còn thấp, so với các nhóm nước tương tự, như EU, Capital Economics cho biết. Thương mại nội khối chỉ đóng góp tổng cộng một phần năm kim ngạch, thấp hơn rất nhiều so với hơn 60% của EU.

ASEAN dự báo tăng trưởng kinh tế đến năm 2025 dựa trên nhiều giả thuyết, như thuế nhập khẩu sẽ về 0%, chi phí thương mại nội khối giảm 20% hay rào cản phi thuế quan giảm nửa. Tuy nhiên, từ khi AEC thành lập, rất nhiều thách thức lại xuất hiện, như giấy chứng nhận xuất xứ bị từ chối hay môi trường kinh doanh trong khu vực chưa cải thiện như kỳ vọng.

Nhiều doanh nghiệp vẫn phàn nàn về các quy định kiềm chế đầu tư, khiến họ khó cung cấp dịch vụ cho người có nhu cầu hay khó điều chuyển lao động tay nghề cao. Tốc độ hội nhập kinh tế của ASEAN được đánh giá chưa đủ để đáp ứng mục tiêu riêng của khối này, cũng như để đối phó với các thách thức toàn cầu trong tương lai.

Giấc mơ kinh tế dang dở của ASEAN ảnh 2

ASEAN vẫn đang tìm cách kết nối kinh tế trong khu vực. Ảnh:Reuters

Năm 2002, ý tưởng về đồng tiền chung ASEAN từng được Thủ tướng Malaysia khi đó - Mahathir Mohamad đưa ra, nhằm giúp thúc đẩy các nền kinh tế và thương mại nội khối. Tuy nhiên, việc này vẫn được đánh giá còn xa vời.

Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2015 tại Jakarta (Indonesia), Bộ trưởng Công nghiệp và thương mại Quốc tế Malaysia khi ấy - Mustapa Mohamed trả lời trên BBC rằng ASEAN không có ý định lập đồng tiền chung. Sự khác biệt về mức thu nhập khiến điều này trở nên bất khả thi. Bên cạnh đó, những gì xảy ra với khu vực đồng tiền chung châu Âu (eurozone) cũng khiến các nước chùn chân. Ông Mohamed cho biết trong tương lai gần, AEC sẽ không có cơ quan nào như Ngân hàng Trung ương châu ÂU (ECB).       

ASEAN cũng chưa đánh giá đúng vai trò của Trung Quốc trong các kế hoạch hội nhập. Thương mại giữa Đông Nam Á với Trung Quốc rất lớn. Tuy nhiên, nó được xây dựng chủ yếu theo hình thức song phương. Ví dụ, khu vực gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam và Thái Lan có quan hệ kinh tế khá chặt chẽ với hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc). Khu vực này gồm 400 triệu dân, có quy mô kinh tế bằng nửa ASEAN và tốc độ tăng trưởng 7-8% mỗi năm, cao hơn trung bình 5% của các nước Đông Nam Á.

Thái Lan cũng đang có tham vọng phát triển hành lang kinh tế phía Đông của riêng nước này, tăng kết nối với Côn Minh (Trung Quốc), và mở rộng tuyến giao thông Đông - Tây từ Mawlamyine ở Myanmar sang Đà Nẵng. Nikkei cho rằng việc này có thể khiến quá trình hội nhập trong ASEAN kém hấp dẫn với các nước.

Chính sách Vành đai và Con đường của Trung Quốc cũng sẽ thay đổi dòng chảy thương mại của Đông Nam Á. Ví dụ, nước này tuyên bố có thể giúp xây dựng kênh đào Kra ở miền nam Thái Lan, nhằm rút ngắn hải trình của tàu bè Trung Quốc từ Trung Đông về Quảng Châu. Việc này có thể làm giảm vai trò của Singapore và ảnh hưởng đến mạng lưới phân phối của nước này.

Năm 2011, dự án đường sắt Singapore - Côn Minh (Trung Quốc) cũng được các bộ trưởng kinh tế ASEAN đánh giá phù hợp với định hướng của Kế hoạch Tổng thể Kết nối ASEAN (MPAC). Tuyến đường sắt sẽ giúp Trung Quốc và các nước ASEAN tăng cường hoạt động giao thông cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế. Dự án bắt đầu hoạt động từ năm 2013 và vẫn đang được xây dựng.

Một thách thức khác là quá trình số hóa đang diễn ra rất nhanh trên thế giới. Nó có thể khiến khoảng cách giữa các nước càng nới rộng. Tự động hóa sẽ chấm dứt việc sử dụng lao động giá rẻ mà nhiều nước trong ASEAN đang phải dựa vào. Mặt khác, các nước có tiềm năng phát triển nền kinh tế số sẽ giàu lên nhờ năng suất cao và sự xuất hiện của các ngành công nghiệp giá trị gia tăng lớn.

Nikkei cho rằng ASEAN đang phải đối mặt với nhiều thách thức và cần định hình lại kế hoạch kinh tế để thích nghi với chúng, nếu muốn hiện thực hóa mục tiêu trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới năm 2050. Dù vậy, nhiều lãnh đạo vẫn tỏ ra lạc quan về tương lai của khu vực này. “Các doanh nghiệp cho rằng AEC mới chỉ dừng ở lời nói. Nhưng tôi cho rằng tốc độ của nó chỉ không như họ kỳ vọng mà thôi. Ít nhất nó cũng đang diễn ra rồi”, Robert Yap - thành viên Hội đồng Tư vấn Kinh doanh ASEAN kết luận.

Chuyên đề