Không còn những khoản vay ưu đãi sẽ trở thành thách thức cho Việt Nam khi lên nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình. Ảnh:Bloomberg |
Với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng gấp 2 lần trong 8 năm, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng đứng đầu thế giới và khu vực. Tuy vậy, một hệ quả cho sự tăng trưởng này là Việt Nam sẽ không còn đủ điều kiện để nhận được những khoản vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế.
Từ cuối tháng 6 năm nay, Việt Nam không còn nhận được khoản vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Thế giới, và hiện đang được xếp vào nhóm đối tượng vay vốn hỗn hợp từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) - một bước rút khỏi nhóm được vay vốn với lãi suất rẻ.
Trong bối cảnh nguồn vốn này bị cắt giảm, Việt Nam sẽ cần tới thị trường trái phiếu, điều này có thể làm gia tăng nguồn cung trong nhóm thị trường trái phiếu của các quốc gia mới nổi - vốn là mặt hàng hấp dẫn những nhà đầu tư trong thời gian gần đây.
"Đây là dấu hiệu rõ ràng chứng minh sự thành công trong phát triển của Việt Nam - trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình", Sebastian Eckardt, nhà kinh tế trưởng của World Bank trả lời trong cuộc phỏng vấn của Bloomberg. "Nhu cầu tài chính của Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng, và các nguồn chính thức sẽ không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển, do vậy thị trường vốn sẽ là nơi được hướng tới", Eckardt nhận định.
Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại của Bộ Tài chính cho biết, hiện Việt Nam đang lên kế hoạch mở rộng vay nợ trong nước. Ông cũng cho biết thị trường nội địa có thể đáp ứng nhu cầu tài chính ở thời điểm hiện tại, tuy nhiên trong tương lai sẽ cần các nhà đầu tư quốc tế tham gia các đợt phát hành thêm nợ nước ngoài.
Kinh tế Việt Nam hiện có quy mô 200 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng trên 6%. Theo dữ liệu của Bloomberg, hiện có khoảng 70% trong 13,2 tỷ USD trái phiếu của Việt Nam được phát hành trong nước, số còn lại được phát hành bằng đồng đôla. Lần phát hành trái phiếu quốc tế gần nhất của Việt Nam vào tháng 11/2014, khi bán 1 tỷ USD trái phiếu có thời hạn 10 năm với lãi suất 4,8%.
“Việt Nam có thể sẽ phải dựa nhiều hơn vào thị trường trái phiếu quốc tế trong tương lai so với trước đây”, ông Mark Baker, Giám đốc đầu tư trái phiếu các thị trường mới nổi Standard Life Investments cho biết.
Ba hãng đánh giá tín nhiệm lớn nhất thế giới đang xếp hạng nợ của Việt Nam ở mức “junk” - không khuyến nghị đầu tư. Mức đánh giá này khiến trái phiếu của Việt Nam có lợi tức cao hơn so với trái phiếu của một số nước Đông Nam Á khác như Indonesia và Philippines - những quốc gia mới được nâng hạng trong những năm gần đây.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, đến năm 2020, Việt Nam sẽ nhận được tổng cộng 45 tỷ USD vốn hỗ trợ phát triển, nguồn vốn được cấp từ năm 2005.
Trước năm 2010, thời hạn trả nợ trung bình đối với các khoản vay từ 30 đến 40 năm, với lãi suất 0,7 - 0,8% mỗi năm. Khi GDP của Việt Nam tăng lên, các điều khoản trở nên ngặt ngèo hơn, từ năm 2011-2015, lãi suất các khoản vay tăng lên 2%, và thời hạn trả nợ rút ngắn còn từ 10-20 năm.
Đến khi các điều kiện ưu đãi không còn, lãi suất đối với các khoản vay bị đẩy lên 3,5% mỗi năm, và thời hạn thanh toán bị rút ngắn một nửa.
Ông Andy Ho, Giám đốc điều hành của VinaCapital cho rằng, cùng với việc tham gia nhiều hơn vào thị trường vốn, Việt Nam cũng có thể xem xét bán tài sản và cải cách thuế. “Việt Nam có thể vay từ thị trường quốc tế, nhưng nếu họ vay quá nhiều thì điều đó sẽ trở nên rất nguy hiểm", ông Andy Hồ nhận xét.