Gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất: Cần phân nhóm doanh nghiệp theo mức chịu tác động

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Việc áp dụng đồng nhất một chính sách gia hạn thời hạn nộp thuế cho tất cả các đối tượng là chưa thực sự phù hợp, bởi mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh và triển vọng hồi phục của các nhóm doanh nghiệp là khác nhau. Hơn nữa, nên bổ sung doanh nghiệp vừa vào nhóm doanh nhiệp có thể được hỗ trợ.
Dù hoạt động trở lại song vấn đề dòng tiền trong thời gian cách ly do dịch Covid-19 vẫn gây khó khăn lớn cho nhiều doanh nghiệp. Ảnh: Nhã Chi
Dù hoạt động trở lại song vấn đề dòng tiền trong thời gian cách ly do dịch Covid-19 vẫn gây khó khăn lớn cho nhiều doanh nghiệp. Ảnh: Nhã Chi

Đây là ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) góp ý Dự thảo Nghị định về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất (Dự thảo) do Bộ Tài chính xây dựng.

VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định phân nhóm đối tượng hưởng chính sách theo mức độ chịu tác động, từ đó cho phép một số nhóm đối tượng được thời gian gia hạn dài hơn.

Chẳng hạn cho phép gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng được kéo dài tối đa 9 tháng (nhưng không vượt quá thời hạn tháng 12/2021) thay vì chỉ gia hạn từ 3 - 5 tháng như đề xuất của Bộ Tài chính hoặc được gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp dài hơn thời hạn 3 tháng như Dự thảo.

Để đảm bảo tính đơn giản và dễ thực hiện của chính sách, có thể cân nhắc chỉ phân làm hai nhóm. Nhóm 1 là các đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19 ở mức độ rất nặng, và/hoặc không có triển vọng hồi phục tốt trong ngắn hạn. Nhóm 2 là các đối tượng bị ảnh hưởng ở mức độ nặng nề khác mà không thuộc nhóm 1.

Nhiều doanh nghiệp cho biết, hiện nay, công tác chống dịch trong nước có xu hướng tập trung khoanh vùng dịch thay vì các biện pháp áp dụng trên diện rộng như thời điểm soạn thảo Nghị định 41/2020/NĐ-CP.

Trong thời gian khoanh vùng dịch, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong phạm vi này bị ảnh hưởng tương đối lớn, trong khi vẫn phát sinh nhiều chi phí, từ đó ảnh hưởng đến dòng tiền của doanh nghiệp. Dù hoạt động trở lại sau đó, vấn đề dòng tiền trong thời gian cách ly vẫn gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp này.

Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nhóm thụ hưởng chính sách bao gồm cả trường hợp doanh nghiệp không thuộc các đối tượng trong Dự thảo, nhưng phải cách ly, phong tỏa, buộc đóng cửa, dừng hoạt động do nằm trong khu vực cách ly hoặc theo quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến việc phòng, chống dịch Covid-19. Về tính khả thi, việc xác định đối tượng này cũng tương đối dễ dàng vì đã có các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, Dự thảo Nghị định hiện chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Tuy nhiên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung đối tượng là các doanh nghiệp quy mô vừa theo quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa bởi một số lý do.

Trước hết, các doanh nghiệp vừa cũng chịu tác động nặng nề từ đại dịch Covid-19. Theo khảo sát của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), tỷ lệ các doanh nghiệp quy mô vừa chịu ảnh hưởng của đại dịch gần tương đương với tỷ lệ của các doanh nghiệp quy mô nhỏ, ở trên cả ba khía cạnh: hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp tạo ra bị sụt giảm nhu cầu; nguồn cung ứng đầu vào suy giảm; giảm tính thanh khoản của tài sản hoặc sự sẵn có của dòng tiền.

Mặt khác, các doanh nghiệp vừa ở Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong cơ cấu doanh nghiệp. Nhóm này là đối tượng có thể phát triển thành quy mô lớn trong trung hạn, tận dụng tốt hơn đổi mới công nghệ và mang lại năng suất cao hơn so với nhóm doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp vừa ở Việt Nam tương đối ít (chỉ khoảng 1,4% số doanh nghiệp vào năm 2017). Do đó, cần thiết phải bảo vệ và hỗ trợ nhóm doanh nghiệp này trước tác động của đại dịch để có thể tồn tại và phát triển quy mô trong tương lai.

Thực tế thực hiện chính sách này năm 2020 cho thấy rằng không gian chính sách vẫn còn tương đối rộng rãi. Tính đến ngày 30/7/2020 (ngày cuối cùng thực hiện chính sách), tổng số tiền thuế và tiền thuê đất được gia hạn là 53.645 tỷ đồng, chiếm 29% của dung lượng dự tính của gói (182.000 tỷ đồng). Lý do là không phải doanh nghiệp nào cũng có nhu cầu hoặc có thể tận dụng được các chính sách trên. Việc hỗ trợ thêm một nhóm đối tượng như trên có thể sẽ không thực sự có ảnh hưởng đến tổng thể gói hỗ trợ gia hạn tiền thuế và tiền thuê đất.

Chuyên đề