Cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Hiến. (Ảnh tư liệu). |
Viện Kiểm sát quân sự Trung ương vừa hoàn tất cáo trạng truy tố cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Hiến và 7 bị can liên quan đến vụ sai phạm đất đai xảy ra tại 3 khu đất (số 2, số 7-9, số 9-11) trên đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, Quận 1 (TPHCM). Ông Nguyễn Văn Hiến bị truy tố về tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng".
Theo cáo trạng, ngày 13/3/2006, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân (QCHQ) thống nhất phương án hợp nhất khu đất trên. Công ty Hải Thành được giao tổ chức hợp tác với các doanh nghiệp trên ba khu đất trên nhưng đảm bảo giữ vững chủ quyền, đúng quy định pháp luật và có lợi cho Quân chủng.
Ngày 2/10/2006, Thường vụ Đảng uỷ Quân chủng Hải Quân đã đề nghị và được Thành ủy UBND TP HCM chấp thuận chủ trương để lại toàn bộ tiền sử dụng đất cho Bộ Tư lệnh Hải quân để trả chi phí giải phóng mặt bằng (nếu có) và đầu tư xây dựng doanh trại hoặc cơ sở phúc lợi cho các đơn vị của hải quân.
Quá trình thực hiện, các bị can Bùi Như Thiềm (nguyên Trưởng phòng Kinh tế, QCHQ), Bùi Văn Nga (nguyên Giám đốc Công ty TNHH MTV Dịch vụ và Du lịch biển đảo Hải Thành, QCHQ) và Đoàn Mạnh Thảo (nguyên Trưởng phòng Tài chính QCHQ) đã đề xuất với Thường vụ Đảng ủy Bộ tư lệnh Hải Quân và trực tiếp thực hiện các phương án chuyển đổi mục đích sử dụng ba khu đất trên thành đất kinh tế, trái với quy định quản lý đất đai.
Tháng 7/2006, Quân chủng Hải quân chưa có báo cáo đề nghị Bộ Quốc phòng trình Thủ tướng cho điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất nhưng bị can Thiềm và Thảo đã trình Thường vụ Đảng ủy Bộ tư lệnh Hải Quân xin ý kiến để ký các hợp đồng liên doanh xây dựng cao ốc văn phòng cho thuê trong 45-49 năm với mức khoán từ 4,5 đến 5 USD một tháng với mỗi mét vuông.
Cơ quan tố tụng xác định, ông Hiến khi đó là Tư lệnh Quân chủng Hải quân do thiếu kiểm tra, thiếu trách nhiệm trong việc quản lý đất quốc phòng nên nhất trí với những đề xuất không đúng quy định trên. Ông ký nhiều văn bản đề nghị Bộ Quốc phòng và các đơn vị liên quan xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất quốc phòng để đưa ba khu đất vào hợp tác xây dựng văn phòng cho thuê.
Sau khi ủy quyền cho Giám đốc Công ty Hải Thành ký hợp đồng, ông Hiến không kiểm tra việc thực hiện của các đơn vị liên quan dẫn đến việc bị đối tác đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển nhượng cho bên thứ ba.
"Hành vi của ông Hiến cùng các bị can khiến cho Quân chủng Hải quân mất quyền sử dụng ba khu đất trong thời gian 49 năm, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước 939 tỷ đồng" - Viện kiểm sát Quân sự trung ương xác định.
Quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân và chỉ đạo của Bộ Quốc phòng trên từng khu đất, các bị can đã sai phạm cụ thể như sau:
Tại khu đất số 2 đường Tôn Đức Thắng có diện tích 1.215 m2 được UBND TPHCM cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 13/1/2003. Tháng 7/2006, ông Hiến ký quyết định giao cho Công ty Hải Thành sử dụng vào mục đích hợp tác liên doanh với Công ty Cảnh Hưng. Sau đó, Công ty TNHH liên doanh Cảnh Hưng Hải Thành được thành lập với vốn điều lệ 15 triệu USD (Công ty Hải Thành 10%, Công ty Cảnh Hưng 90%).
Tháng 8/2007, bị can Thiềm trình ông Hiến ký quyết định cho phép Công ty Hải Thành được sử dụng khu đất trong 49 năm để góp vốn thành lập Công ty Cảnh Hưng Hải Thành.
Ngày 17/12/2007, UBND TPHCM phê duyệt giá trị khu đất hơn 187 tỷ đồng để Công ty Hải Thành nộp vào ngân sách nhà nước khi làm dự án. Công ty Cảnh Hưng Hải Thành đã xây dựng tòa nhà 27 tầng nổi, 4 tầng hầm, và đã hoàn thiện 9 tầng đang cho thuê làm văn phòng. Hơn nữa, công ty này đã bán cổ phần cho một số đối tác nhưng đến nay chưa nộp về QCHQ số tiền sử dụng đất 187 tỷ đồng.
Còn tại lô đất số 9-11 đường Tôn Đức Thắng có diện tích 2.087 m2 được Bộ Quốc phòng giao cho Công ty Hải Thành quản lý. Tháng 10/2006, Công ty Hải Thành ký biên bản ghi nhớ với Công ty Mai Anh thực hiện dự án xây dựng cao ốc đa chức năng tại đây với thời hạn 49 năm. Để thực hiện dự án, hai bên ký hợp đồng liên doanh, thành lập Công ty TNHH Mai Thành, vốn điều lệ 15 triệu USD (Công ty Hải Thành 10% và Công ty Mai Anh góp 90%).
Công ty Hải Thành chịu trách nhiệm hoàn thiện các thủ tục pháp lý của khu đất và được hưởng một khoản thu nhập ổn định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty liên doanh là 115.032 USD/năm.
Tháng 5/2008, UBND TP HCM cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án tại khu đất số 9-11 cho Công ty Hải Thành để đầu tư xây dựng cao ốc văn phòng thương mại trong thời hạn 50 năm. Công ty Hải Thành có trách nhiệm lập dự án đầu tư trình Bộ Quốc phòng phê duyệt theo quy định, nộp tiền sử dụng đất. Bộ Tư lệnh Hải Quân có trách nhiệm báo cáo Bộ Quốc phòng về việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất để trình Thủ tướng xem xét phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất quốc phòng trên địa bàn thành phố.
Bị can Thảo sau đó trình công văn cho ông Hiến ký gửi UBND TP HCM xin được ghi thu, ghi chi tiền sử dụng khu đty 9-11 là hơn 248 tỷ đồng, đề nghị cho Công ty Hải Thành chuyển thẳng số tiền này cho Quân chủng Hải quân sử dụng.
Khi được UBND TP HCM cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng khu đất số 9-11, Công ty Hải Thành và Công ty Mai Anh ký phụ lục sửa đổi hợp đồng liên doanh, xác định vốn điều lệ của công ty liên doanh là 510 tỷ đồng. Công ty Hải Thành góp 248 tỷ đồng bằng giá trị quyền sử dụng đất khu đất, Công ty Mai Anh góp 261 tỷ đồng.
Theo đề nghị của Công ty Hải Thành, ngày 28/11/2013, UBND TP HCM cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ Công ty Hải Thành sang Công ty TNHH Mai Thành.
Công ty TNHH Mai Thành sau đó đã xây dựng xong tòa nhà 34 tầng, hiện cho thuê làm văn phòng nhưng đến nay chưa nộp về QCHQ số tiền sử dụng đất hơn 248 tỷ đồng.
Khu đất số 7-9 đường Tôn Đức Thắng có diện tích 4.044m2, sau điều chỉnh diện tích còn 3.531m2 đã được UBND TPHCM cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 8/3/2006, Công ty TNHH Sản xuất thương mại Dịch vụ Yên Khánh (Công ty Yên Khánh) đã gửi Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tờ trình giới thiệu năng lực của mình và xin hợp tác kinh doanh. Tin tưởng nội dung phản ánh về năng lực của Công ty Yên Khánh, bị can Nguyễn Văn Hiến đã không kiểm tra, thẩm định về năng lực của Công ty này.