Thực hiện hiệu quả đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định đột phá về hạ tầng là 1 trong 3 đột phá chiến lược nhằm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tính kết nối và liên thông cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Kết cấu hạ tầng của Việt Nam hầu hết được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, sự tham gia của khu vực tư nhân còn hạn chế. Ảnh: Tường Lâm
Kết cấu hạ tầng của Việt Nam hầu hết được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, sự tham gia của khu vực tư nhân còn hạn chế. Ảnh: Tường Lâm

Vấn đề đặt ra là huy động và sử dụng nguồn lực ngân sách nhà nước làm sao cho có hiệu quả để tạo ra thị trường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hấp dẫn, thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, xây nên những công trình hiện đại, bền vững, có giá trị thiết thực cho phát triển kinh tế.

Đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng tập trung vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối các vùng, miền, tạo thành mạng lưới giao thông thống nhất, thông suốt, kết nối với các nước trong khu vực và thế giới; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng năng lượng, điện, nước, thông tin, viễn thông, thoát nước, xử lý chất thải..., đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, nông thôn, bảo đảm đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.

Đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng được kỳ vọng sẽ tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo nền tảng chuyển đổi số, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2045.

Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả quan trọng trong phát triển kết cấu hạ tầng. Về giao thông, Việt Nam đã đầu tư xây dựng nhiều tuyến đường cao tốc, đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay mới, hiện đại. Tổng chiều dài đường bộ toàn quốc đạt 628.700 km, trong đó đường nhựa đạt 396.200 km, chiếm 62,8%. Tổng chiều dài các tuyến đường bộ cao tốc đang khai thác trên cả nước được nâng lên hơn 1.820 km. Hệ thống cảng biển dần hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu vận tải biển ngày càng tăng. Sân bay quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng... được nâng cấp, mở rộng, đáp ứng nhu cầu vận tải hàng không quốc tế.

Về năng lượng, Việt Nam đã xây dựng nhiều nhà máy điện, đáp ứng nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng của nền kinh tế. Tỷ lệ điện thương phẩm đạt 99,4%, sản lượng điện sản xuất đạt 458,4 tỷ kWh. Hệ thống lưới điện được hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu cấp điện cho sản xuất, kinh doanh, dân sinh.

Về thông tin liên lạc, Việt Nam đã xây dựng mạng lưới viễn thông rộng khắp, hiện đại. Tỷ lệ phủ sóng điện thoại di động đạt 99,9%, tỷ lệ sử dụng Internet đạt 78,59%. Hệ thống thông tin liên lạc đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế.

Huy động nguồn lực đầu tư cho hạ tầng là giải pháp quan trọng nhất để giải quyết những vấn đề về phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam. Bên cạnh nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn vay ODA, cơ chế, chính sách thu hút đầu tư cho kết cấu hạ tầng cần được hoàn thiện theo hướng mời gọi, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp tham gia đầu tư.

Tuy nhiên, so với những nền kinh tế phát triển trong khu vực và quốc tế, hạ tầng Việt Nam còn nhiều điểm hạn chế, nhất là ở nhóm vấn đề về nguồn lực và chất lượng kết cấu hạ tầng. Cụ thể, nguồn vốn đầu tư cho hạ tầng còn thấp; cơ chế, chính sách thu hút đầu tư chưa đầy đủ, chưa thực sự khuyến khích được sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân; năng lực quản lý, điều hành dự án đầu tư kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Trong khi đó, chất lượng nhiều dự án hạ tầng chưa tương xứng với vốn đầu tư, hạ tầng ở khu vực nông thôn còn yếu kém; tỷ lệ hư hỏng, xuống cấp của các công trình hạ tầng còn cao.

Để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng Việt Nam, rõ ràng cần sự quan tâm, đầu tư mạnh mẽ hơn nữa của cả Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp. Hiện nay, kết cấu hạ tầng của Việt Nam hầu hết được đầu tư bởi Chính phủ và các cơ quan khác thuộc khu vực công như chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước, sự tham gia của khu vực tư nhân còn hạn chế. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia đầu tư. Cùng với đó, cộng đồng doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực này.

Trong tầm nhìn dài hạn, các bộ, ngành liên quan đã và đang xây dựng các quy hoạch cho từng lĩnh vực, trong đó riêng ngành giao thông, 5 quy hoạch chuyên ngành gồm đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, cảng hàng không đã được Chính phủ phê duyệt. Các bản quy hoạch đặt ra mục tiêu rất lớn như đầu tư, phát triển theo quy hoạch hệ thống đường bộ cao tốc, đến năm 2025 phấn đấu có khoảng 3.000 km; 2030 là khoảng 5.000 km và đến năm 2050 khoảng 9.000 km; nâng cấp, cải tạo các cảng hàng không lớn trở thành cảng hàng không của khu vực và quốc tế; xây dựng hệ thống cảng biển của Việt Nam là một trong những hệ thống cảng biển tiên tiến của thế giới, hướng tới hệ thống cảng biển xanh, thông minh, đáp ứng được việc thực hiện cam kết COP26 vào năm 2050… Bên cạnh các quy hoạch chuyên ngành, từng vùng, tỉnh, thành cũng đã và đang xây dựng quy hoạch địa phương đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có cấu phần quan trọng là quy hoạch hạ tầng, nhằm đạt tới mục tiêu chung của đất nước. Tuy nhiên, hiện thực hóa một khát vọng, một tầm nhìn cần có những bước đi cụ thể và bài bản, bắt đầu từ việc làm thế nào để huy động được nguồn lực và chọn lựa ưu tiên sử dụng nguồn lực để phát triển từng vùng, từng địa phương.

Huy động nguồn lực đầu tư cho hạ tầng là giải pháp quan trọng nhất để giải quyết những vấn đề về phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam. Bên cạnh nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn vay ODA, cơ chế, chính sách thu hút đầu tư cho kết cấu hạ tầng cần được hoàn thiện theo hướng mời gọi, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp tham gia đầu tư. Để làm được điều này, Nhà nước cần tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao, đồng thời có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cùng với đó, năng lực quản lý, điều hành các dự án hạ tầng cần được nâng cao thông qua việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành dự án, đồng thời có các cơ chế, chính sách khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong công tác quản lý, điều hành dự án. Cần ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở khu vực nông thôn, đồng thời, bên cạnh công tác xây dựng mới, cần tăng cường quản lý, bảo trì, bảo dưỡng các công trình hạ tầng, đảm bảo các công trình luôn được vận hành an toàn, hiệu quả.

Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho xây dựng kết cấu hạ tầng của Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Chuyên đề