Từ năm 1990 tới năm 2016, Việt Nam đã hoàn tất thủ tục cho 84 dự án PPP, với 79% các dự án thuộc lĩnh vực năng lượng. Ảnh Internet |
Đó là nhận định của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Báo cáo mới nhất về Giám sát đối tác công – tư vừa được Ngân hàng này công bố.
Khảo sát 9 quốc gia trong khu vực gồm: Băng-la-đét, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa), Ấn Độ, In-đô-nê-xia, Ca-dắc-xtan, Papua Niu Ghi-nê, Phi-lip-pin, Thái Lan và Việt Nam. Báo cáo Giám sát đối tác công tư của ADB lần đầu tiên được công bố đã theo dõi sự phát triển của môi trường kinh doanh đối tác công - tư tại các nước thành viên ADB và cung cấp những nhận định thấu đáo cho các chính phủ để cấu trúc một môi trường thuận lợi cho các hoạt động PPP.
Chủ tịch ADB Takehiko Nakao cho biết: “Các dự án PPP góp phần hết sức quan trọng vào sự phát triển của các quốc gia ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nhưng cần có môi trường thuận lợi để các dự án này có thể thành công. Báo cáo này sẽ giúp cả các nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư đưa ra những quyết định được thông tin đầy đủ, quản lý rủi ro tốt hơn, và bảo đảm một môi trường ổn định hơn cho các dự án PPP”.
Theo Báo cáo này, ADB đánh giá, Chính phủ Việt Nam đang quyết tâm giảm bớt vai trò của nhà nước trong nền kinh tế và khuyến khích tăng trưởng do khu vực tư nhân làm động lực. Các quy định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Nghị định 15) được ban hành năm 2015 đã xây dựng khung pháp lý nhằm thu hút đầu tư tư nhân nhiều hơn vào phát triển cơ sở hạ tầng quốc gia. Từ năm 1990 tới năm 2016, Việt Nam đã hoàn tất thủ tục cho 84 dự án PPP với tổng số vốn lên tới 16,2 tỷ USD, với 79% các dự án thuộc lĩnh vực năng lượng. Tuy nhiên, chưa có dự án PPP nào được triển khai trong khuôn khổ mới nhất này.
Báo cáo Giám sát PPP của ADB nhận thấy rằng những thách thức hiện thời dành cho Việt Nam bao gồm các vấn đề bảo đảm an toàn cho bên cho vay nước ngoài, do khung pháp lý hiện hành về tăng cường tín dụng và các cơ chế bảo lãnh vẫn chưa rõ ràng, cùng những hạn chế về thế chấp quyền sử dụng đất cho các ngân hàng nước ngoài khi đất đai được cấp trên cơ sở cho thuê miễn phí.
Đối với các nước trong khu vực, ADB đánh giá, Ấn Độ, Phi-lip-pin và Thái Lan có các thị trường tài chính phát triển nhất, có thể cung cấp những khoản vay dài hạn (trên 10 năm) bằng đồng nội tệ để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng. Các thị trường này cũng có nhiều giải pháp tài chính đa dạng, bao gồm tài trợ bằng trái phiếu.
Báo cáo đánh giá, Trung Quốc có số lượng lớn nhất các dự án PPP đã hoàn tất các thỏa thuận tài chính. Song vẫn có thể gia tăng quy mô các dự án PPP trong nước bằng cách dựa vào các công ty tư nhân nhiều hơn.
Trong những xu hướng chủ đạo được nhận thấy ở báo cáo năm nay, sản xuất năng lượng là một trong các lĩnh vực thành công nhất trong việc xây dựng các khuôn khổ PPP. Sản xuất địa nhiệt và năng lượng tái tạo là những lĩnh vực chi phối tại đa số các quốc gia được khảo sát trong báo cáo Giám sát PPP. Ngành nước cũng là một lĩnh vực chủ đạo của hoạt động đầu tư PPP, với hơn 40% các dự án PPP tại Trung Quốc thuộc lĩnh vực này.
Với sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực hạ tầng xã hội còn khá mới mẻ, tiến triển của các dự án PPP trong những lĩnh vực xã hội, nhất là y tế và giáo dục, vẫn còn chậm trên toàn khu vực. Ấn Độ là quốc gia thành công nhất và đã triển khai được một số dự án PPP trong ngành y tế, dù các nước khác cũng đã bắt đầu phát triển các dự án PPP tương lai trong lĩnh vực xã hội.
Vẫn còn nhiều thách thức đối với sự phát triển của hình thức PPP trong tương lai, bao gồm sự gia tăng các phương thức tài chính, đa dạng hóa hơn nữa mạng lưới các nhà đầu tư, quản lý rủi ro biến động giao thông trong các dự án giao thông, phát triển một danh mục các dự án PPP đáng tin cậy, và mở rộng sang các lĩnh vực khác ngoài năng lượng.
Ông Alexander N.Jett, Chuyên gia về Đối tác công tư thuộc Văn phòng Đối tác công – tư của ADB chia sẻ: “Có rất nhiều cách để các quốc gia có thể khắc phục những khó khăn trong việc phát triển phương thức PPP. Một số giải pháp bao gồm vận dụng hơn nữa việc tăng cường tín dụng để thu hút các điều khoản tài trợ tốt hơn, giảm bớt sự hạn chế đối với sở hữu của nước ngoài trong các hợp đồng PPP, và áp dụng các hệ thống thanh toán niên kim dựa trên hiệu quả hoạt động thay vì lưu lượng giao thông để giảm thiểu các rủi ro giao thông.
Tăng cường năng lực thể chế để rà soát và ưu tiên cho các dự án có thể giúp các quốc gia xây dựng một danh mục những dự án PPP đáng tin cậy, trong khi việc xây dựng quy chế cụ thể của ngành cho các lĩnh vực phi năng lượng có thể giải quyết những quan ngại liên quan tới các vấn đề chính về tính khả thi để tài trợ, ví dụ như rủi ro tỷ giá hối đoái”.