Ảnh Internet |
Trong đó, vốn trong nước đạt 51,71% (cùng kỳ năm 2020 là 60,88%), vốn nước ngoài đạt 12,69% (cùng kỳ năm 2020 đạt 21,65%).
Theo rà soát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay, có 4 bộ và 11 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt trên 60%; 46/50 bộ, cơ quan trung ương và 52/63 địa phương đến hết tháng 9/2021 giải ngân dưới 60% kế hoạch vốn ngân sách trung ương đã được giao từ đầu năm 2021.
Tính đến ngày 27/9/2021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận được đề xuất của 15 bộ, cơ quan trung ương và 23 địa phương trả lại kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương năm 2021 với tổng số vốn là 21.771,492 tỷ đồng. Trong đó, vốn trong nước là 3.917,057 tỷ đồng; vốn nước ngoài là 17.854,435 tỷ đồng.
Ngoài ra, có 6 địa phương có văn bản đề nghị bổ sung kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương với tổng số vốn là 1.643,888 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách trung ương trong nước là 1.595 tỷ đồng của 5 địa phương (Tuyên Quang: 600 tỷ đồng; Yên Bái: 300 tỷ đồng; Thái Bình: 400 tỷ đồng; Bình Thuận: 100 tỷ đồng, Bình Phước: 195 tỷ đồng) và vốn nước ngoài là 48,888 tỷ đồng duy nhất 1 địa phương (Kiên Giang).
Báo cáo chỉ ra, việc giải ngân vốn đầu tư công chậm do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan đã tồn tại cố hữu từ lâu như: công tác giải phóng mặt bằng, đấu thầu, thay đổi chính sách và quy định, năng lực chủ đầu tư, nhà thầu, việc tránh thanh toán vốn nhiều lần, chờ thanh một lần của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu, tính chất đặc thù của chi đầu tư, niên độ ngân sách nhà nước là 1 năm, giao kế hoạch vốn đầu năm, quyết toán cuối năm, nên kế hoạch thực hiện, thi công xây dựng các công trình, dự án cũng phụ thuộc vào kế hoạch vốn,…
Bên cạnh những nguyên nhân cố hữu nêu trên, trong những tháng đầu năm xuất hiện thêm một số nguyên nhân khác làm ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Đó là, năm 2021 là năm chuyển tiếp giữa hai nhiệm kỳ và kiện toàn tổ chức, bộ máy, nhân sự gắn với đại hội Đảng và bầu cử Quốc hội, HĐND, UBND các cấp; năm đầu tiên của một chu kỳ kế hoạch mới, với ưu tiên đầu tư công tập trung chủ yếu vào công tác chuẩn bị cho giai đoạn 5 năm tới.
Trong khi đó, đối với các dự án khởi công mới trong giai đoạn 2021 - 2025, tập trung triển khai công tác chuẩn bị đầu tư những tháng đầu năm và chỉ triển khai thực hiện sau khi được giao kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025.
Phân tích cụ thể, có 8 nguyên nhân khách quan và 3 nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng tới tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.
Về khách quan, là một số vướng mắc liên quan đến các quy định tại Luật Đầu tư công năm 2019; các nghị định hướng dẫn về thẩm quyền thẩm định thiết kế, dự toán đầu tư dự án không có cấu phần xây dựng; thẩm quyền phê duyệt dự toán nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư, nhiệm vụ quy hoạch; thủ tục nhập cảnh cho các chuyên gia dự án ODA, thủ tục về điều chỉnh dự án, quy định về điều chỉnh chủ trương đầu tư các dự án ODA… cũng ảnh hưởng đến việc giải ngân các dự án ODA.
Ngoài ra, còn một nguyên nhân khách quan khác, đó là dịch bệnh Covid-19 bùng phát, các địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội triệt để hơn, nên tác động đến cả các hoạt động tư vấn như khảo sát, thiết kế và cả thi công công trình. Việc giá nguyên liệu đầu vào gia tăng cùng thiếu hụt nguyên liệu như đất đai cũng đã ảnh hưởng đến phương án tài chính và tìm kiếm nguồn cung, nguyên liệu thay thế khi triển khai dự án theo hợp đồng đã ký, qua đó ảnh hưởng tỷ lệ giải ngân.
Trong khi đó, 3 nguyên nhân chủ quan được chỉ ra là do công tác chuẩn bị dự án, giao kế hoạch ở một số địa phương còn thiếu chủ động; công tác tổ chức triển khai thực hiện tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương còn nhiều bất cập; các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét… Nguyên nhân giải ngân chậm nguồn vốn ODA có nhiều đặc thù, nhiều dự án lớn đang phải thực hiện các thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh hiệp định vay với nước ngoài nên chưa đủ cơ sở pháp lý để triển khai hoạt động, dẫn đến chưa thể lập hồ sơ rút vốn; công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án còn tồn tại bất cập, dẫn tới tính sẵn sàng để triển khai của dự án còn thấp; một số dự án không được bố trí vốn đối ứng đầy đủ, kịp thời đã ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ, giải ngân vốn nước ngoài...