Dịch bệnh là một trong những rủi ro lớn nhất đối với nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2020. Ảnh: THÀNH HOA |
Bối cảnh vĩ mô “vững chắc” hơn
Theo báo cáo mới nhất của Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), kết thúc quí 1-2020, chỉ số VN-Index đóng cửa ở mức 662,53, giảm 298,46 điểm (tương đương với 31,06%) so với đầu năm 2020. Mức giảm trong quí 1 là mức giảm lớn thứ hai trong lịch sử, chỉ sau thời điểm quí 1-2008 với mức giảm 44,25%. Tuy vậy, nếu nhìn lại bối cảnh vĩ mô trong cuộc khủng hoảng toàn cầu gần nhất năm 2008 thì năm 2020 các chỉ số vĩ mô của Việt Nam đang ở trạng thái tích cực hơn khá nhiều.
Cụ thể, về tăng trưởng tín dụng, năm 2007 mức tăng lên tới trên 50%. Nhưng ngay sau đó, trong nửa đầu năm 2008, Chính phủ lại phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát (có thời điểm lên tới trên 20%). Về lãi suất, năm 2008, chỉ riêng các loại lãi suất điều hành như lãi suất tái cấp vốn đã lên tới 15%/năm, lãi suất cơ bản (để tham chiếu lãi suất cho vay) cũng ở mức 14%/năm, mặt bằng lãi suất huy động thực tế duy trì ở mức cao, lợi suất trái phiếu hai năm và năm năm nhiều thời điểm lên tới trên 20%. Mức mất giá của tiền đồng lúc đó cũng rất lớn, có thời điểm lên tới 9%.
Trong khi đó, những năm gần đây, tăng trưởng tín dụng luôn được kiểm soát ở mức quanh 14%, các chỉ số vĩ mô khác như lạm phát, tỷ giá, mặt bằng lãi suất trong tầm kiểm soát và ở mức thấp. Thanh khoản hệ thống ngân hàng cũng ở trạng thái dồi dào. Bên cạnh đó, so với năm 2008, các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ năm 2020 như thông qua gói giảm lãi vay, giãn nợ cho doanh nghiệp; giãn thuế, giảm tiền thuê đất; gói an sinh xã hội; gói giảm giá xăng dầu, giá điện... cũng đang được thực hiện kịp thời và đúng đối tượng hơn, giúp giảm nguy cơ gây bất ổn vĩ mô như những gì đã diễn ra sau gói kích cầu giai đoạn 2008-2009.
Về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp, nhìn lại quá khứ thì một năm sau khủng hoảng 2008, các doanh nghiệp đã nhanh chóng lấy lại đà tăng trưởng. Theo BVSC, thống kê lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp niêm yết tại cả hai sàn HSX và HOSE năm 2008 cho thấy lợi nhuận sau thuế của nhiều ngành đã sụt giảm 5% so với năm 2007. Tuy nhiên nhờ các chính sách kích cầu của Chính phủ mà lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp đã tăng trưởng mạnh trong cả năm 2009 và 2010 với mức tăng lần lượt là 57,2% và 92,5% so với năm 2007. Trong năm 2008, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của nhiều ngành ghi nhận sụt giảm, như ngành dịch vụ tài chính giảm từ 18% xuống còn 10%, bất động sản từ 14% về 10%, xây dựng và vật liệu xây dựng từ 16% về 11%... Tính chung toàn bộ mẫu, ROE đã giảm từ mức 17,8% năm 2007 về mức 14,5% năm 2008, tuy nhiên ROE của chính mẫu này cũng đã tăng lại mức 19,4% ngay trong năm 2009.
Mặc dù quy mô thị trường, quy mô doanh nghiệp tại thời điểm hiện nay có sự khác biệt rất lớn so với năm 2008 nhưng sự thích ứng của các doanh nghiệp, cùng với các chính sách hỗ trợ kinh tế kịp thời của Chính phủ được kỳ vọng sẽ giúp nhiều doanh nghiệp sớm vượt qua khó khăn và sớm đạt được mức tăng trưởng trở lại trong tương lai gần.
Một số rủi ro đáng chú ý
Bên cạnh đó, rủi ro gia tăng nợ xấu trong nền kinh tế cũng là điều rất đáng lưu tâm. Theo đánh giá sơ bộ của Ngân hàng Nhà nước thì dư nợ dự kiến bị ảnh hưởng khoảng 2 triệu tỉ đồng, chiếm khoảng 23% dư nợ toàn hệ thống, tiềm ẩn rủi ro đối với hoạt động ngân hàng. Tính từ năm 2012 đến năm 2019, GDP đầu người của Việt Nam tăng từ 1.150 đô la Mỹ/người lên 2.760 đô la/người, tăng khoảng 2,5 lần, tuy nhiên tốc độ cho vay cá nhân lại tăng khá nhanh - tăng 6,2 lần (xét trong mẫu 20 ngân hàng với tổng dư nợ chiếm khoảng 65% tổng dư nợ toàn hệ thống). Tỷ lệ dư nợ cho vay cá nhân của mẫu này đang chiếm tỷ trọng trên 40% tổng dư nợ tín dụng. Dư nợ cho vay cá nhân tăng nhanh một mặt đã góp phần làm tăng hiệu quả cho các ngân hàng, nhưng trong bối cảnh dịch bệnh hiện nay (nếu kéo dài) sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro khi thu nhập của người vay sụt giảm.
Ngoài rủi ro từ nợ xấu gia tăng trong hệ thống ngân hàng thì rủi ro từ trái phiếu doanh nghiệp cũng đã lớn hơn trước rất nhiều. Trong năm 2017, giá trị trái phiếu doanh nghiệp được phát hành là 115.000 tỉ đồng, năm 2018 là 224.000 tỉ đồng và năm 2019 đã lên đến 296.000 tỉ đồng. Tính đến đầu tháng 4-2020, giá trị trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành là 37.200 tỉ đồng, trong đó ngành bất động sản, xây dựng tiếp tục chiếm tỷ trọng trên 35% tổng giá trị phát hành. Với giá trị phát hành tăng mạnh trong ba năm gần đây, rủi ro từ trái phiếu doanh nghiệp cũng sẽ xuất hiện, đặc biệt nếu dịch bệnh kéo dài sẽ khiến lợi suất yêu cầu của trái phiếu doanh nghiệp tăng cao, tạo thêm áp lực cho nhà phát hành.
Tựu chung, sự ổn định của hệ thống ngân hàng, của các chỉ số vĩ mô, sức khỏe của doanh nghiệp, và sự hấp dẫn về định giá của thị trường chứng khoán là cơ sở để kỳ vọng thị trường chứng khoán năm 2020 sẽ sớm ổn định trở lại và không còn giảm sốc như thời gian qua. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là mặc dù bối cảnh vĩ mô năm 2020 về cơ bản ở trạng thái tích cực hơn so với năm 2008 nhưng quy mô nợ của toàn nền kinh tế lại đang ở mức lớn hơn nhiều, thể hiện qua tổng dư nợ tín dụng/GDP đã đạt 130% hay quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp liên tục gia tăng. Trên cơ sở đó, nếu dịch bệnh kéo dài, đây có thể sẽ là một trong những rủi ro lớn nhất đối với nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán trong năm 2020.