Số lượng và chất lượng doanh nghiệp quyết định sức mạnh, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế |
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã nâng hạng Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam 2019 tăng 10 bậc, xếp thứ 67/141 nền kinh tế. Đánh giá chi tiết 12 tiêu chí của Việt Nam cho thấy, 8/12 tiêu chí của Việt Nam tăng điểm và tăng nhiều bậc. Trong đó điển hình như: Ứng dụng công nghệ thông tin tăng 54 bậc, Thị trường sản phẩm tăng 23 bậc, Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc, Năng lực đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc, Thể chế tăng 5 bậc. Mặc dù có những cải thiện đáng kể, song vẫn còn 3 tiêu chí tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị trí không đổi. Cụ thể là: Ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi thứ hạng (64); Hệ thống tài chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; Kết cấu hạ tầng tăng 0,5 điểm, nhưng giảm 2 bậc (77); Y tế giảm điểm 0,5 điểm và tụt 3 hạng (71). Mặc dù đã có tiến bộ quan trọng, song vị trí xếp hạng của Việt Nam trong khu vực còn khiêm tốn, chỉ cao hơn Lào, Campuchia và rất cần được tiếp tục cải thiện.
Ngân hàng Thế giới (WB) đã nâng xếp hạng Môi trường kinh doanh của Việt Nam trong năm 2017 lên 14 bậc. Song, theo báo cáo Môi trường kinh doanh của WB 2020, dù tăng điểm, Việt Nam vẫn tụt 1 bậc so với năm trước (70/167), do các nước khác có tiến bộ nhanh hơn.
Trong khi rất trân trọng các tiến bộ đã đạt được, cũng cần nhìn thẳng vào sự thật là các xếp hạng mà Việt Nam đạt được chỉ ở vị trí trung bình thấp, các chỉ số về thể chế, hạ tầng, chi phí ngoài pháp luật còn xếp rất thấp và hạn chế năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ. Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cũng cho thấy, 54% doanh nghiệp xác nhận phải chi ngoài pháp luật để “bôi trơn” trong giải quyết các thủ tục hành chính.
Năng lực cạnh tranh quốc gia đòi hỏi có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh; đồng thời phải xây dựng môi trường kinh doanh, chính sách vĩ mô và kết cấu hạ tầng thích hợp. Chính phủ trực tiếp chịu trách nhiệm về năng lực cạnh tranh quốc gia và gián tiếp về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm.
Để doanh nghiệp cạnh tranh tốt, điều kiện, tiền đề kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, môi trường kinh tế phải ổn định; kết cấu hạ tầng, lao động, khoa học và công nghệ cũng là những yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia. Thực hiện cạnh tranh bình đẳng.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh nhiều sản phẩm, dịch vụ có năng lực cạnh tranh khác nhau.
Giảm bớt chi phí về logistics cũng là yêu cầu cấp bách để giảm chi phí cho doanh nghiệp. Từ năm 2018, sức ép giảm chi phí rất lớn do thuế nhập khẩu đối với phần lớn hàng hóa từ các nước ASEAN và các nước đã ký hiệp định thương mại tự do với ASEAN và nước ta như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… đều về 0%. Nếu không giảm được chi phí, doanh nghiệp Việt sẽ thua ngay trên sân nhà, doanh nghiệp sẽ bị suy yếu, thậm chí phá sản.
Nhân tố quyết định của năng lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp là khoa học - công nghệ, sự sáng tạo. Máy ảnh kỹ thuật số đã thay thế máy ảnh phim; xe ô tô điện tự lái sẽ thay thế dịch vụ taxi trong những năm tới; năng lượng tái tạo, điện mặt trời, điện gió sẽ thay thế điện than gây ô nhiễm... Nhà nước phải khuyến khích sự đổi mới sáng tạo, ủng hộ tiến bộ khoa học - công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực.
Số lượng và chất lượng doanh nghiệp quyết định sức mạnh, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Boeing, Microsoft, Apple... là đại diện cho nước Mỹ cũng như Samsung, Hyundai... là hình ảnh của Hàn Quốc. Số lượng doanh nghiệp trên 1.000 người dân là thước đo cho sự phát triển của kinh tế thị trường. Nhưng so với các nước trong khu vực, số doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam còn quá ít và chưa có thương hiệu nào tiêu biểu cho quốc gia. Theo Sách trắng Doanh nghiệp của Tổng cục Thống kế xuất bản năm 2019, năm 2018 bình quân cả nước có 14,7 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân số trong độ tuổi lao động. Khu vực kinh tế tư nhân đăng ký theo Luật Doanh nghiệp chỉ chiếm 9 - 10% GDP trong khi kinh tế hộ gia đình chiếm đến 31% GDP, doanh nghiệp tư nhân không lớn lên được, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn bé đi.
Trong khi thừa nhận đóng góp của khu vực kinh tế hộ gia đình về tạo việc làm, đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu thị trường thì cũng phải thừa nhận năng lực cạnh tranh của khu vực này trên thị trường quốc tế là không có và cũng khó cạnh tranh trên thị trường nội địa trước làn sóng thâm nhập của hàng hóa, dịch vụ nước ngoài. Hơn thế nữa, kinh doanh không đăng ký thương hiệu, không có nhãn hiệu hàng hóa, khu vực này đang cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp tư nhân. Để khắc phục, cần có chính sách khuyến khích kinh doanh đúng pháp luật, chế tài nghiêm các hiện tượng bảo kê, bao che làm ăn phi pháp. Khuyến khích kinh doanh lành mạnh, có chiến lược dài hạn, đầu tư vào khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực. Điều này đòi hỏi cải cách quan hệ nhà nước với doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp liên kết lại để nâng cao sức cạnh tranh.
Mùa Xuân là dịp để chúng ta nhìn lại việc đã qua, tổng kết kinh nghiệm và xác định nhiệm vụ cho thời gian tới. Chúc cho một mùa Xuân mới với năng lực cạnh tranh cao sẽ đến với đất nước và doanh nghiệp đất Việt yêu dấu của chúng ta.