Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Ảnh: Lê Tiên |
Thưa Bộ trưởng, trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu phát triển bền vững được đặt ra như thế nào và đâu là những động lực quan trọng để Việt Nam phát triển bền vững trong thời gian tới?
Đối với Việt Nam, phát triển bền vững là con đường tất yếu, là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước. Việt Nam xác định nhiệm vụ trọng tâm là phát triển bền vững, xem con người và chất lượng cuộc sống là yếu tố trung tâm của các chủ trương, chính sách phát triển đất nước.
Quan điểm phát triển nhanh, bền vững sớm thể hiện trong rất nhiều chủ trương, chính sách của Đảng. Từ Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960, Đảng đã đề ra phương châm hành động là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII năm 2016 tiếp tục đặt mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện nghị quyết của Đảng, các chính sách của Chính phủ cũng tập trung điều hành để tăng trưởng nhanh đi đôi với phát triển bền vững, không để lại những hệ quả tiêu cực cho tương lai.
Thực tế 2 năm 2017, 2018, GDP lần lượt đạt những con số ấn tượng 6,81% và 7,08%. Lạm phát được duy trì ở mức thấp dưới 4%. Kỳ tích tăng trưởng đã đạt được mà không phải đánh đổi, trả giá bằng bất ổn vĩ mô, thâm dụng tài nguyên hay tín dụng. Bởi nền kinh tế 2018 đi đến đích từ những nền tảng vững chắc, từ sự khởi sắc ở hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu, thu hút đầu tư tư nhân và từ sự nhanh nhạy nắm bắt triệt để các cơ hội có được. Đó cũng là kết quả của quá trình tái cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, hiệu quả, cải thiện môi trường kinh doanh và phát huy tích cực vai trò Nhà nước kiến tạo. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được nâng cao, dịch chuyển sang chiều sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế được cải thiện đáng kể. Năm 2019, Chính phủ phấn đấu tăng trưởng cao hơn năm 2018, nhưng mục tiêu hàng đầu vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô.
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định, song kinh tế Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thách thức, thể hiện qua GDP bình quân đầu người còn thấp, năng suất lao động chưa cao; nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu. Cùng với đó, bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng gia tăng, các vấn đề môi trường và tác động của biến đổi khí hậu, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) và hội nhập kinh tế quốc tế vừa là cơ hội lớn nhưng cũng tạo ra những thách thức không nhỏ. Để đưa nền kinh tế vượt qua bẫy thu nhập trung bình, trở thành quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tốc độ mà chúng ta cần đi trên con đường phía trước sẽ phải nhanh hơn, bứt phá hơn so với chính mình và đuổi theo được tốc độ của các nước trong khu vực và thế giới, nếu không muốn tụt hậu.
Với bối cảnh này, mục tiêu phát triển bền vững tiếp tục phải đặt trong bài toán kép là đi đôi với tăng trưởng nhanh, duy trì tốc độ tăng trưởng cao liên tục. Động lực cho tăng trưởng nhanh, bền vững của Việt Nam giai đoạn tới vẫn dựa trên nền móng là cải cách thể chế kết hợp với tập trung nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các chính sách, giải pháp phù hợp, hữu hiệu, nhất là thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao; phát triển kinh tế tư nhân trong mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; phát triển nguồn nhân lực - đây là yếu tố quyết định sự thành công và hiệu quả của tất cả những động lực khác.
Như Bộ trưởng vừa nói, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thành công của các động lực khác. Bộ trưởng có thể chia sẻ cụ thể hơn về vai trò của yếu tố con người đối với phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay?
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược. Đây là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chất lượng nguồn nhân lực trong nhiều năm qua đã có những bước cải thiện, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và là một lợi thế trong thu hút đầu tư của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, lợi thế này sẽ cần phải thay đổi, đi sâu vào tăng năng suất lao động, hơn là lợi thế lao động giá rẻ.
Khát vọng thịnh vượng của Việt Nam đòi hỏi phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế dựa vào yếu tố tăng năng suất lao động. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng năng suất lao động của Việt Nam hiện vẫn còn thấp xa so với một số nước trong khu vực, vẫn chủ yếu sử dụng lao động giản đơn, trong khi việc đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, đặc biệt là việc nâng cao chất lượng lao động... còn rất hạn chế. Đây cũng chính là điểm nghẽn của phát triển bền vững của Việt Nam trong trung và dài hạn.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh CMCN 4.0 bùng nổ, sự thay đổi của khoa học công nghệ, quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, sự chuyển dịch của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực công nghệ cao… nguồn nhân lực càng cần phải thay đổi nhanh chóng. Đó là phải chuyển dịch từ lao động giản đơn sang lao động tay nghề cao, kỹ năng tốt, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức, tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu không thay đổi, không những không tận dụng được cơ hội để tăng năng suất, mà còn có nguy cơ bị đào thải, thay thế bởi sự phát triển của robot, máy móc, trí tuệ nhân tạo.
Nhìn chung, trong bối cảnh mới, vai trò của yếu tố con người, nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Nhưng yêu cầu đặt ra là phải thay đổi mạnh mẽ chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện năng suất của người lao động trong kỷ nguyên CMCN 4.0, tạo ra một lực lượng lao động làm việc thông minh, hiệu quả hơn.
Với yêu cầu và vai trò quan trọng như vậy, những giải pháp cần thiết để phát triển chất lượng nguồn nhân lực là gì thưa Bộ trưởng?
Về thể chế, nhận thức rõ vai trò của yếu tố con người, nguồn nhân lực, Chính phủ luôn ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, nguồn lực xã hội đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhằm cải thiện trình độ và kỹ năng lao động, phát huy tối đa tính sáng tạo. Một vấn đề lớn được Chính phủ rất quan tâm thực hiện theo lộ trình là cải cách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp giữa tăng tiền lương, tăng năng suất lao động, tăng cường chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động…
Trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng và cuộc CMCN 4.0, Chính phủ đặc biệt quan tâm tăng cường đầu tư cho khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của cuộc CMCN 4.0.
Chính sách lớn đưa ra đã khá đầy đủ, nhưng cần tiếp tục thực hiện mạnh mẽ, đi vào thực chất, với những hỗ trợ thiết thực, cụ thể hơn.
Về phía cung, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, quan trọng nhất vẫn là nâng cao chất lượng, đổi mới giáo dục đào tạo. Đặc biệt, đẩy mạnh thực hiện đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học và khu vực nghiên cứu, tăng cường sự kết nối với doanh nghiệp. Sản phẩm đầu ra là đội ngũ lao động có trình độ, kỹ năng, phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, của các ngành, lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Tiếp tục chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Về phía cầu, cần nâng cao nhu cầu về tri thức trong chính các doanh nghiệp, mà chủ yếu bằng việc tăng áp lực cạnh tranh thực sự trong hoạt động kinh doanh. Cạnh tranh thị trường lành mạnh sẽ tăng áp lực buộc các doanh nghiệp tìm kiếm tri thức, đổi mới công nghệ, cải thiện chất lượng lao động để giành ưu thế.
Song song với phát triển nguồn nhân lực, thì cơ chế bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng người tài cũng rất quan trọng. Bộ trưởng đánh giá thế nào về cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài hiện nay?
Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống văn hiến lâu đời, từ ngàn đời nay ông cha ta đã đặc biệt quan tâm đến việc trọng dụng nhân tài, coi nhân tài là rường cột của quốc gia. Câu nói nổi tiếng của nhân sĩ Thân Nhân Trung: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” không chỉ trong phạm vi xã hội thời Lê, mà còn mang một ý nghĩa phổ quát đối với đất nước qua mọi thời kỳ lịch sử.
Kế thừa và phát huy truyền thống của cha ông ta, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng đến việc đào tạo và trọng dụng nhân tài. Nhờ có tư tưởng lớn về nhân tài, Người đã tập hợp được một lực lượng hùng hậu các nhân sĩ, trí thức, nhân tài góp phần xây dựng đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, ngày nay, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm, chăm lo đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thu hút và trọng dụng người tài, nhất là đội ngũ các nhà khoa học, các trí thức trong và ngoài nước.
Nhiều nghị quyết về công tác cán bộ, trọng dụng nhân tài đã được ban hành như Nghị quyết số 03-NQ/TW năm 1997 về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2008 về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và mới đây là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 87/2014/NĐ-CP ngày 22/9/2014 về thu hút cá nhân hoạt động khoa học công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài; Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 5/12/2017 về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ...
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đã có một số quy định nhằm phát hiện, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ những người có trình độ cao tham gia vào trong hoạt động công vụ; xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao. Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 đều đã có quy định khung về chính sách phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng.
Có thể nói việc xây dựng hệ thống chính sách về thu hút, trọng dụng nhân tài đã được coi trọng. Tuy nhiên, hiệu quả thu hút, giữ chân người tài chưa cao, việc chảy máu chất xám vẫn là một thực tế và người Việt Nam tài năng thành công ở những quốc gia phát triển trên thế giới dường như vẫn chưa có nhiều cơ hội cống hiến, làm việc, thỏa sức sáng tạo tại quê nhà.
Đó có phải lý do Bộ KH&ĐT đưa ra sáng kiến Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam để tạo ra cầu nối, sợi dây gắn kết trí tuệ Việt trong và ngoài nước?
Đúng vậy. Tôi cho rằng Việt Nam không thua kém bất cứ quốc gia nào về trí tuệ con người. Không có cơ chế chính sách thu hút nhân tài là sự lãng phí rất ghê gớm tài nguyên quốc gia.
Trong thời đại toàn cầu hóa, Chính phủ không thể loại bỏ được hiện tượng chảy máu chất xám, mà phải học cách chung sống, hạn chế các tác động tiêu cực và thậm chí có thể hưởng lợi từ đây nếu biết tận dụng đúng cách.
Sáng kiến Mạng lưới đổi mới sáng tạo được công bố ngày 19/8/2018 đã tạo ra cầu nối để các nhà khoa học, chuyên gia công nghệ, trí thức người Việt đang học tập, làm việc ở nước ngoài và giới khoa học, chuyên gia công nghệ, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu trong nước cùng gặp gỡ, tạo mối liên kết, trao đổi, chia sẻ tầm nhìn, chiến lược phát triển khoa học công nghệ và những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam cần đẩy mạnh trong thời gian tới.
Các bộ, cơ quan của Chính phủ đã có cơ hội lắng nghe, tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu các ý kiến của các bạn trẻ tài năng về những giải pháp phát triển đất nước dựa trên nền tảng công nghệ 4.0, để từ đó tham mưu cho Chính phủ trong việc xây dựng chiến lược, thể chế, khuôn khổ pháp luật.
Và điều tuyệt vời nhất, tôi nhìn thấy trong các bạn trẻ trở về dịp đó tình yêu Tổ quốc, niềm khát khao và niềm tin vào những cơ hội được cống hiến nhiều hơn sức lực, trí tuệ, chia sẻ tri thức, tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới cho quê hương, đất nước. Chương trình đã mở ra rất nhiều cơ hội cụ thể để họ có thể kết nối hợp tác với những doanh nghiệp công nghệ trong nước, hay những chương trình, dự án về khoa học công nghệ trong nhiều lĩnh vực, để dù sau đó có trở về nước hay không, dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới vẫn có thể đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Bác là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Sáng kiến Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam là nền móng và sự kết nối này sẽ tiếp tục được duy trì, mở rộng. Song song với đó, Chính phủ sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế để nuôi dưỡng, thu hút nhân tài, giải phóng năng lực cá nhân, phát huy tối đa sức sáng tạo cá nhân. Từ một trăm tài năng, trí tuệ tiên phong, tôi tin tưởng rằng trong tương lai sẽ quy tụ được tài năng, trí tuệ Việt Nam cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước. Từ đó sẽ khơi dậy tiềm lực trí tuệ, sáng tạo của người Việt, tạo thành một sức mạnh mới, một nguồn lực quan trọng, tạo ra sự đổi thay về diện mạo và trình độ phát triển công nghệ của Việt Nam, để hiện thực hóa và tận dụng nhanh nhất các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại cho sự phát triển đất nước.
Nhân dịp năm mới, Bộ trưởng có thông điệp gì gửi tới đông đảo độc giả của Báo Đấu thầu?
Dù là thời đại công nghệ, nhưng tôi nghĩ rằng không phải công nghệ mà con người với tư duy sáng tạo, văn hóa đổi mới sáng tạo mới là yếu tố quyết định sự thành bại. Bởi con người chính là trung tâm thực hiện mọi sự đổi mới sáng tạo.
Trong nỗ lực chung, rất cần cả những khát vọng của mỗi cá nhân, mỗi người lao động, tự ý thức học hỏi để bản thân vươn lên, để đem lại cuộc sống tốt hơn cho chính mình, từ đó đóng góp nhiều hơn cho đất nước.
Một mùa xuân mới đang về, rất nhiều mục tiêu đang ở phía trước. Tôi hy vọng mỗi một người con đất Việt cùng thắp cho mình một ngọn lửa ước mơ, ngọn lửa khát khao cống hiến và một trái tim nhiệt huyết. Và từ những ngọn lửa nhỏ, khát vọng Việt Nam sẽ bùng cháy, tiếp sức để chúng ta vững bước đi đến mục tiêu thịnh vượng.
Và cái đích cuối cùng của sự phát triển thịnh vượng cũng là để phục vụ con người, vì cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc hơn của mỗi người dân Việt Nam. Mục tiêu ấy sẽ giúp chúng ta kiên định con đường phát triển bền vững, vì tương lai, lan tỏa các thành quả phát triển đến với mọi tầng lớp nhân dân, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!