VNR nói gì về việc chọn công ty con trúng thầu?

(BĐT) - Xoay quanh những tranh cãi và quan ngại của dư luận về việc bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu khi Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) lựa chọn công ty con trúng thầu một số gói thầu do VNR làm chủ đầu tư, Báo Đấu thầu đã phỏng vấn ông Vũ Anh Minh, Chủ tịch Hội đồng thành viên VNR về vấn đề này.
Ảnh Internet
Ảnh Internet

Theo ông, việc VNR lựa chọn công ty con trúng thầu một số gói thầu sửa chữa, bảo trì đường sắt do VNR làm chủ đầu tư thời gian qua có bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu hay không?

Việc thi công xây dựng, sửa chữa định kỳ đường sắt có tính đặc thù là vừa phải đảm bảo phục vụ chạy tàu với mật độ cao, vừa phải đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, an toàn về người, máy móc thiết bị trong quá trình thi công cơ giới kết hợp thủ công. Chính vì thế, Thủ tướng Chính phủ đã có Văn bản số 713/TTg-KTN ngày 19/5/2015 cho phép các doanh nghiệp quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt thuộc VNR tham gia quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện các gói thầu thuộc Dự án Đầu tư xây dựng công trình đường sắt và Dự án Sửa chữa kết cấu hạ tầng đường sắt do VNR làm chủ đầu tư.

Hiện nay, VNR có 20 công ty con - doanh nghiệp trực thuộc mà VNR nắm giữ trên 50% cổ phần thực hiện nhiệm vụ quản lý gác chắn, đường ngang, tuần đường sắt ngày đêm. Việc cho phép 20 công ty con này tham gia đấu thầu các gói thầu sửa chữa đường sắt do VNR làm chủ đầu tư sẽ góp phần tạo cơ hội việc làm, đảm bảo thu nhập cho một khối lượng lớn người lao động làm nhiệm vụ công ích tại đây (khoảng 14.000 người). Mặt khác, các gói thầu sửa chữa, bảo trì đường sắt được đấu thầu rộng rãi, các tiêu chí mời thầu được công khai và áp dụng bình đẳng với mọi nhà thầu tham dự nên việc cho phép 20 công ty này tham gia đấu thầu sẽ mở rộng đối tượng tham dự thầu, tăng tính cạnh tranh cho gói thầu, giúp VNR lựa chọn được nhà thầu đáp ứng yêu cầu và có giá dự thầu cạnh tranh nhất.

VNR nói gì về việc chọn công ty con trúng thầu? ảnh 1
Ông Vũ Anh Minh 

Chủ tịch Hội đồng thành viên VNR

Một số ý kiến cho rằng, Văn bản số 713/TTg-KTN chỉ áp dụng cho các Công ty TNHH MTV, công ty có 100% vốn của VNR mà không có hiệu lực với các công ty thuộc VNR đã hoàn thành cổ phần hóa. Ý kiến của ông về vấn đề này là gì?

Theo quy định tại Điều 1 của Điều lệ tổ chức hoạt động của VNR ban hành kèm theo Nghị định số 175/2013/NĐ-CP thì các công ty dù đã cổ phần hóa nhưng VNR có vốn góp chi phối (trên 50%) vẫn là công ty con của VNR. Do đó, 20 công ty nói trên (bao gồm 15 công ty bảo trì đường sắt và 5 công ty thông tin tín hiệu) vẫn được xác định là công ty con của VNR, là những công ty nằm trong phạm vi áp dụng của Văn bản số 713/TTg-KTN. Và hiện tại, VNR không có Công ty TNHH MTV nào, không đầu tư và nắm giữ 100% vốn điều lệ của bất kỳ công ty con nào. 

Theo Điều 6 Luật Đấu thầu 2013 và Điều 2 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP thì các công ty đường sắt có trên 30% vốn góp của VNR sẽ không được tham gia đấu thầu các gói thầu do chính VNR làm chủ đầu tư. Và tính cả 20 công ty đường sắt nằm trong phạm vi áp dụng của Văn bản số 713/TTg-KTN thì vẫn có những doanh nghiệp đường sắt có vốn góp từ 30 - 50% của VNR không được tham gia đấu thầu các gói thầu sửa chữa, bảo trì đường sắt do VNR làm chủ đầu tư. Điều này sẽ tạo ra sự “không bình đẳng” với các doanh nghiệp đường sắt đã thực hiện cổ phần hóa. Ông có đề xuất giải pháp gì để tháo gỡ vấn đề này?

Hiện tại, VNR chỉ còn một vài doanh nghiệp đường sắt có từ 30 - 50% vốn góp của VNR có khả năng thực hiện việc sửa chữa, bảo dưỡng đường sắt, nhưng theo quy định về bảo đảm cạnh tranh thì sẽ không được tham gia đấu thầu các gói thầu do VNR làm chủ đầu tư. Do đó, thời gian tới, VNR sẽ đẩy nhanh việc thoái hết vốn, đảm bảo các công ty này có đủ tư cách hợp lệ để tham gia đấu thầu các gói thầu của VNR. Mục tiêu và mong muốn của VNR là có thật nhiều nhà thầu tham gia đấu thầu các gói thầu sửa chữa, bảo dưỡng đường sắt để VNR có nhiều sự lựa chọn và lựa chọn được các nhà thầu đủ năng lực, kinh nghiệm, có giá dự thầu hợp lý để đảm bảo mục tiêu, hiệu quả của các gói thầu. Từ đó, góp phần cùng VNR nâng cao chất lượng các công trình hạ tầng đường sắt, tăng cường chất lượng phục vụ chạy tàu với mật độ cao, đảm bảo sự thông suốt trong quá trình chạy tàu cũng như an toàn giao thông đường sắt.

Chuyên đề