Ảnh minh họa |
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường hiện hành, sau đánh giá tác động môi trường, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đang sử dụng các loại giấy phép, công cụ để quản lý môi trường đối với các dự án, cơ sở như: Giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, giấy phép xả thải vào nguồn nước; giấy phép hành nghề quản lý chất thải nguy hại; sổ chủ nguồn thải; phương án bảo vệ môi trường; kế hoạch quản lý môi trường. Do vậy, thực tiễn công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở trong giai đoạn vận hành đang được thực hiện với sự chồng lấn giữa nhiều công cụ, trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chủ yếu tiến hành kiểm tra dựa trên báo cáo sau đánh giá tác động môi trường. Về mặt khoa học, báo cáo sau đánh giá tác động môi trường chỉ là một công cụ dự báo, phục vụ cho giai đoạn cấp phép cho dự án. Trên thực tiễn, trong giai đoạn vận hành, các vấn đề môi trường của cơ sở hoàn toàn có thể có khác biệt so với dự báo trong báo cáo sau đánh giá tác động môi trường, do đó việc kiểm tra và tiến hành các biện pháp cưỡng chế, xử phạt dựa trên báo cáo này là không hợp lý.
Tại Điều 67, 68, 70, Chương VII Luật Bảo vệ môi trường về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy định về việc lập và thực hiện phương án bảo vệ môi trường; Điều 16 Nghị định 18/2015/NĐ-CP cũng đã quy định về kế hoạch quản lý môi trường, nhưng còn chưa rõ ràng, cụ thể. Đây là các công cụ quản lý môi trường trong giai đoạn hoạt động của cơ sở. Tuy nhiên, các công cụ này chưa đủ mạnh về mặt pháp lý vì vẫn chủ yếu do các cơ sở tự lập, tự thực hiện. Việc phải có một công cụ quản lý thống nhất, có tính pháp lý cao, cụ thể là giấy phép môi trường, là hết sức cần thiết và phù hợp với thực tiễn thế giới trong quá trình hội nhập.
Về mặt cấp phép môi trường, theo kinh nghiệm quốc tế, hiện có 2 phương thức chính: 1- Giấy phép môi trường hợp nhất (như đang áp dụng tại các nước EU); 2-Nhiều giấy phép môi trường đơn lẻ, mỗi vấn đề môi trường có một giấy phép riêng (như đang áp dụng tại Hoa Kỳ, Australia, Trung Quốc, một số nhóm đối tượng đặc thù tại các nước EU…). Thực tiễn áp dụng trên thế giới cho thấy không có ưu thế rõ rệt giữa 2 phương thức nêu trên, việc áp dụng phương thức nào còn tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và tình hình thực tế của từng nước, tuy nhiên, đều bảo đảm nguyên tắc không chồng chéo, một đối tượng cụ thể không bị áp dụng cả 2 phương thức cấp phép.
Ở Việt Nam hiện nay đã tồn tại một số loại giấy phép môi trường theo cả 2 phương thức cấp phép nêu trên. Luật Tài nguyên nước quy định về giấy phép xả thải vào nguồn nước (là hình thức giấy phép đơn lẻ), trong khi đó Luật Bảo vệ môi trường quy định về giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường (là hình thức giấy phép hợp nhất). Việc tồn tại cả 2 phương thức cấp phép dẫn đến sự chồng lấn, mâu thuẫn trong nội dung cấp phép, phát sinh thủ tục, gây phiền toái cho các doanh nghiệp. Cụ thể: Việc xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường tại Khoản 2 Điều 27 Luật Bảo vệ môi trường đã bao gồm kiểm tra, xác nhận hiệu quả xử lý hệ thống xử lý nước thải. Trong khi đó, Điều 38 Luật Tài nguyên nước cũng quy định về việc lập hồ sơ xin phép xả thải vào nguồn nước của chủ dự án. Hai giấy phép này gần như cùng một nội dung mà doanh nghiệp phải xin 2 giấy phép, gây tốn kém, lãng phí.
Ngoài ra, còn khá nhiều thủ tục hành chính khác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trùng lặp về mục tiêu, nội dung, thẩm quyền (thực chất là một thủ tục) nhưng đang được quy định trong một luật hay bởi các luật khác nhau và theo đó được thực hiện theo các thủ tục khác nhau, gây lãng phí thời gian, chi phí xã hội. Do vậy, vấn đề cải cách hành chính và hợp nhất, liên thông các thủ tục hành chính về môi trường là một trong những nội dung ưu tiên để thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ.
Trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn về một công cụ quản lý môi trường thống nhất cũng như đẩy mạnh quá trình cải cách, giảm thủ tục hành chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung các Điều 103a, 103b, 103c Mục 6. Quy định về giấy phép môi trường vào Chương IX. Quản lý chất thải. Theo đó, bổ sung các nội dung về: Vai trò, vị trí của giấy phép môi trường (là công cụ quản lý môi trường thống nhất đối với cơ sở khi đã đi vào giai đoạn hoạt động; là căn cứ để các cơ sở thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và để các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm - thay cho việc kiểm tra căn cứ vào báo cáo sau đánh giá tác động môi trường như hiện nay); nội dung của giấy phép môi trường (có thể quy định phù hợp với đặc thù đối với từng loại ngành, nghề khác, nhóm đối tượng có rủi ro môi trường khác nhau); lập, phê duyệt và thực hiện giấy phép môi trường. Các quy định này sẽ thay thế toàn bộ các nội dung về giấy phép, thủ tục về môi trường đối với cơ sở trong giai đoạn hoạt động đang được quy định tại nhiều Luật và văn bản hướng dẫn khác nhau.
Nội dung bổ sung được đề xuất tại khoản 10 Điều 1 dự thảo Luật.