Doanh nghiệp vẫn tốn 76 giờ cho mỗi thủ tục kiểm tra chuyên ngành

(BĐT) - Có thể thấy những nỗ lực của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc cải cách lĩnh vực kiểm tra chuyên ngành (KTCN) đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đã mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, theo rà soát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), kết quả thực tế của các hành động này vẫn chưa đạt được như mong đợi và DN vẫn phải tốn 76 giờ để giải quyết một thủ tục KTCN.
Cần cải cách các quy định cũng như việc thực thi hoạt động KTCN trong tất cả các lĩnh vực. Ảnh: Tường Lâm
Cần cải cách các quy định cũng như việc thực thi hoạt động KTCN trong tất cả các lĩnh vực. Ảnh: Tường Lâm

Mới có 6% các mặt hàng loại khỏi diện phải KTCN

Theo đánh giá của cộng đồng DN, điều đáng ghi nhận nhất trong thời gian qua là việc rà soát sửa đổi các văn bản về KTCN; cắt giảm, đơn giản hóa, minh bạch mã HS của Danh mục mặt hàng phải KTCN; rà soát, loại bỏ quy định chồng chéo giữa các cơ quan trong KTCN; ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn phục vụ KTCN; chuyển thời điểm KTCN từ trước sang sau thông quan; hiện đại hóa thủ tục KTCN.

Tuy nhiên, trên thực tế, ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch VCCI than thở, đến nay mới chỉ có khoảng 6% các mặt hàng được đưa ra khỏi diện phải KTCN. Về việc làm rõ các mặt hàng phải KTCN, có tới 63/164 Danh mục hàng hóa phải KTCN chưa được các Bộ quản lý chuyên ngành ban hành chính thức, chưa chỉ rõ mã HS từng mặt hàng, hoặc có mã HS chưa phù hợp (chiếm tới 36% số Danh mục). Về thời gian cho KTCN, mặc dù có nhiều cải cách về thủ tục, tới nay thời gian KTCN trung bình vẫn là 76 giờ/thủ tục, cao hơn xấp xỉ ba lần so với các nước ASEAN-4.

Kết quả rà soát sơ bộ vào tháng 6/2018 của VCCI đối với Danh mục hàng hóa, thủ tục hành chính về quản lý chuyên ngành và KTCN đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo đề nghị của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy những bất cập lớn trong KTCN hiện nay. Nhiều hoạt động KTCN còn chưa rõ ràng về các loại hàng hóa phải thực hiện kiểm tra (không có Danh mục hàng hóa cụ thể phải kiểm tra). Điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể trong nhận diện các loại hàng hóa phải được kiểm soát. Một số biện pháp quản lý về an toàn thực phẩm còn chưa áp dụng theo cơ chế quản lý mới (trong khi Nghị định 15/2018/NĐ-CP, văn bản cơ sở cho vấn đề này đã có những thay đổi căn bản về cơ chế quản lý về an toàn thực phẩm của các sản phẩm hàng hóa).

Quy trình vận hành giữa các hoạt động KTCN (liên quan tới kiểm tra chất lượng hàng hóa) cũng chưa được thực hiện đồng bộ. Việc áp dụng quản lý rủi ro trong KTCN vẫn chưa được nhiều cơ quan, tổ chức KTCN áp dụng, dẫn đến tình trạng gần như tất cả các lô hàng đều bị kiểm tra, kể cả các trường hợp rủi ro vi phạm rất thấp.

Theo một báo cáo khác của Bộ Tài chính, công tác xã hội hóa hoạt động KTCN (giao cho các tổ chức chứng nhận sự phù hợp thực hiện việc KTCN về chuyên môn) cũng mới chỉ được một số Bộ quản lý chuyên ngành triển khai gần đây như Bộ Nông nghiệp, Bộ Công thương, Bộ Y tế...

Cần có sự vào cuộc quyết liệt hơn

Để hoạt động KTCN vừa đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước vừa tạo thuận lợi cho DN, cần có sự vào cuộc quyết liệt hơn nhằm cải cách các quy định cũng như việc thực thi hoạt động KTCN trong tất cả các lĩnh vực.

Theo ông Vũ Tiến Lộc, cần xây dựng các Danh mục hàng hóa cụ thể thuộc diện phải kiểm soát ở từng lĩnh vực; với nguyên tắc áp dụng theo kiểu loại trừ - hàng hóa chưa được nêu cụ thể trong Danh mục nào phải được đương nhiên xuất nhập khẩu mà không cần làm thủ tục KTCN.

Đối với việc kiểm soát về an toàn thực phẩm, cần thiết kế lại toàn bộ theo quy trình mới tại Nghị định 15; đối với việc kiểm dịch thực vật, kiểm dịch động vật, cần thiết kế quy trình để đảm bảo DN chỉ cần thực hiện một thủ tục tại một cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đối với việc kiểm tra chất lượng hàng hóa, cần thống nhất chuyển về một quy trình, trong đó việc kiểm tra được thực hiện bởi các tổ chức chứng nhận sự phù hợp (DN tự động thuê dịch vụ của tổ chức này, căn cứ vào loại hàng hóa cụ thể của mình và yêu cầu pháp luật về kiểm tra đối với loại hàng hóa tương ứng; không cần xin giấy tờ gì từ cơ quan quản lý chuyên ngành trước đó); kết quả kiểm tra được DN xuất trình trực tiếp cho cơ quan hải quan (không cần sự can thiệp hay giấy tờ xác nhận kết quả kiểm tra nào của cơ quan quản lý chuyên ngành).

Nguyên tắc quản lý rủi ro trong quản lý chuyên ngành, theo các doanh nghiệp, việc KTCN chỉ thực hiện đối với các trường hợp có nguy cơ cao, ví dụ như: Nhà nhập khẩu có lịch sử vi phạm pháp luật về xuất nhập khẩu; Có căn cứ cho thấy lô hàng nhập khẩu có dấu hiệu gian lận, vi phạm pháp luật; Loại hàng hóa nhập khẩu là đối tượng bị gian lận, vi phạm pháp luật thường xuyên; Loại hàng hóa hoặc nơi xuất xứ của hàng hóa đang là đối tượng, vùng có nguy cơ dịch bệnh cao… Cần phân loại hàng hóa để chuyển việc KTCN một số loại hàng hóa từ tiền kiểm sang hậu kiểm, ví dụ như: Hàng hóa là máy móc thiết bị, phương tiện giao thông vận tải… đã có chứng nhận tiêu chuẩn kỹ thuật; hàng hóa là thực phẩm đóng hộp, thực phẩm khác đã có chứng nhận tiêu chuẩn vệ sinh của nước xuất khẩu…

Để rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục, phía VCCI đề nghị cần khắc phục tình trạng trùng lặp về giấy tờ, hồ sơ trong KTCN; Bỏ những loại giấy tờ không chứa đựng thông tin về chất lượng hàng hoá như B/L, invoice, packing list… Nếu tiếp tục cho phép vừa quản lý điện tử, vừa quản lý thủ công, sẽ không những không giảm được thủ tục, thời gian mà còn nhân đôi công việc, do đó cần đồng bộ hóa các thủ tục điện tử. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung là rất cất thiết, có thể chia sẻ thông tin giữa các cơ quan KTCN và Cơ quan hải quan.

Và một lần nữa ông Lộc nhấn mạnh, cần xóa bỏ tình trạng độc quyền trong hoạt động kiểm tra, đánh giá sự phù hợp, tạo cơ chế để tất cả các tổ chức đáp ứng năng lực chuyên môn đều có thể tham gia vào hoạt động kiểm tra chứng nhận sự phù hợp của các sản phẩm hàng hóa, tránh tình trạng chuyển độc quyền DN từ “một cơ quan quản lý chuyên ngành” sang “một/một số tổ chức chứng nhận sự phù hợp”.

Chuyên đề