Ảnh Internet |
Cổ đông sáng lập phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn góp; cam kết hỗ trợ về tài chính để giải quyết khó khăn trong trường hợp TCTD phi ngân hàng khó khăn về vốn hoặc khả năng chi trả, thanh khoản; không phải là cổ đông chiến lược, cổ đông sáng lập, chủ sở hữu, thành viên sáng lập của TCTD khác được thành lập và hoạt động tại Việt Nam; có khả năng về tài chính để góp vốn thành lập TCTD phi ngân hàng; không được dùng vốn ủy thác, vốn huy động, vốn vay của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức, cá nhân khác để góp vốn.
Trong trường hợp cổ đông sáng lập là cá nhân, ngoài đáp ứng các điều kiện kể trên, còn phải là người mang quốc tịch Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự; không thuộc đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp. Nếu cổ đông sáng lập là tổ chức, ngoài đáp ứng điều kiện của cổ đông sáng lập còn phải đáp ứng điều kiện là được thành lập theo pháp luật Việt Nam; kinh doanh có lãi trong 3 năm tài chính liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập TCTD phi ngân hàng; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế và bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Cũng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, nếu cổ đông sáng lập TCTD phi ngân hàng là là doanh nghiệp thì phải có vốn chủ sở hữu tối thiểu 500 tỷ đồng, tổng tài sản tối thiểu 1.000 tỷ đồng trong 3 năm tài chính liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép. Trường hợp cổ đông sáng lập là ngân hàng thương mại thì phải có tổng tài sản tối thiểu 100.000 tỷ đồng, tuân thủ đầy đủ các quy định về quản trị rủi ro và trích lập dự phòng đầy đủ theo quy định; không vi phạm các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép.