Kích hoạt động lực kinh tế tư nhân, nâng tầm doanh nghiệp Việt

(BĐT) - Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị là một dấu mốc quan trọng, thể hiện sự quan tâm sâu sắc và quyết tâm chính trị cao trong việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế đất nước.

Kinh tế tư nhân là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và dịch vụ. Ảnh: Tiên Giang
Kinh tế tư nhân là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và dịch vụ. Ảnh: Tiên Giang

Bà Bùi Thu Thủy, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể thuộc Bộ Tài chính tin rằng, KTTN sẽ khẳng định vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế đất nước, đóng góp ngày càng lớn vào GDP, tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.

201.jpg

Thổi làn gió mới

Thưa bà, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã “thổi làn gió mới”, thể hiện bước tiến đột phá về tư duy phát triển, từ đó lan tỏa hiệu ứng tích cực vào cộng đồng doanh nghiệp (DN). Bà cảm nhận thế nào về những hiệu ứng từ Nghị quyết?

Trong gần 40 năm qua, khu vực KTTN nước ta đã phát triển mạnh mẽ, đóng góp lớn vào GDP, giải quyết việc làm, thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, chưa bao giờ vai trò của KTTN được khẳng định mạnh mẽ như trong Nghị quyết số 68-NQ/TW, khi lần đầu tiên KTTN được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Có thể nói đây là bước tiến đột phá về tư duy phát triển. Từ vị trí bị xem nhẹ, KTTN nay được đặt ngang hàng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, cùng giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập sâu rộng. DN tư nhân từ chỗ được coi như đối tượng để quản lý, thì nay được xác định là đối tác đồng hành, cùng với Nhà nước tham gia kiến tạo, phát triển đất nước. Tư duy đột phá này không chỉ thể hiện sự thay đổi về nhận thức, mà còn là cam kết chính trị mạnh mẽ gửi tới cộng đồng DN, hộ kinh doanh (HKD) và toàn thể nhân dân.

Nghị quyết 68-NQ/TW được ban hành đã tác động mạnh mẽ, tạo sự chuyển biến tích cực, sự thay đổi đáng kể trong tư duy, nhận thức của toàn xã hội từ cấp trung ương đến địa phương, tổ chức hiệp hội, người dân và bản thân cộng đồng DN, HKD về KTTN. Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, cả hệ thống chính trị đã nhanh chóng vào cuộc. Một loạt giải pháp mạnh mẽ được triển khai, từ cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh, hoàn thiện thể chế, pháp luật đến các giải pháp tạo điều kiện cho KTTN tiếp cận nguồn lực về vốn, đất đai, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tham gia vào các dự án lớn mang tính chiến lược, các dự án quan trọng của quốc gia…

Đến nay, sau 3 tháng ban hành, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã thực sự “thổi làn gió mới”, lan tỏa hiệu ứng hết sức tích cực tới nền kinh tế, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, lập nghiệp trong toàn xã hội. Số lượng DN, HKD thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng cao nhất từ trước tới nay. Tháng 6/2025 ghi nhận cột mốc lịch sử khi số lượng DN thành lập mới đạt hơn 24,4 nghìn DN, tăng 60,5% so với cùng kỳ năm 2024, gấp 2 lần mức trung bình giai đoạn 2021 - 2024. Tháng 7/2025, cả nước có thêm hơn 16,5 nghìn DN đăng ký thành lập, đưa tổng số DN thành lập 7 tháng đầu năm lên 107,7 nghìn, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm ngoái; số vốn tăng thêm của DN đang hoạt động đạt hơn 2,4 triệu tỷ đồng, tăng hơn 186%. 7 tháng đầu năm cũng ghi nhận hơn 66,3 nghìn DN quay trở lại hoạt động, tăng gần 50% so với cùng kỳ 2024, trong đó riêng tháng 7 có gần 15 nghìn DN quay trở lại hoạt động, tăng hơn 78%.

Tháng 7/2025, cả nước có 61,46 nghìn HKD thành lập mới với số vốn đăng ký đạt 12,4 nghìn tỷ đồng, đưa tổng số HKD thành lập trong 7 tháng đạt gần 536,2 nghìn hộ, tăng 165% so với cùng kỳ năm trước. Trong 6 tháng đầu năm 2025, có gần 13.700 hộ kinh doanh nộp thuế khoán chuyển đổi sang nộp thuế theo phương pháp kê khai và gần 1.480 hộ kinh doanh chuyển đổi thành DN.

Bên cạnh sự hưởng ứng từ phía người dân, DN, xin bà chia sẻ thêm một số chuyển biến tích cực khác?

Nghị quyết số 68-NQ/TW cùng với Nghị quyết số 57-NQ/TW, 4 luật và 11 nghị quyết thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV; 28 nghị định về phân cấp, phân quyền là minh chứng rõ nét, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ của các cơ quan nhà nước, chuyển từ tư duy “xin - cho” sang “kiến tạo - hỗ trợ - phục vụ”. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã có hành động cụ thể trong rà soát rào cản pháp lý, thuế, tín dụng, đất đai, chuyển đổi số, nguồn nhân lực… cho thấy Nghị quyết không chỉ nằm trên giấy.

Các kết quả tích cực trong sản xuất kinh doanh đã tác động đến tăng thu ngân sách nhà nước (NSNN). Trong 6 tháng đầu năm, thu NSNN từ khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt gần 260 nghìn tỷ đồng, bằng 125% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó tổng thu NSNN từ hộ, cá nhân kinh doanh là 17,1 nghìn tỷ đồng, đạt 53,4% so với nhiệm vụ thu, bằng 131% so với cùng kỳ năm 2024. Kết quả tích cực này góp phần vào tổng thu NSNN 6 tháng đầu năm của cả nước đạt 1,33 triệu tỷ đồng, bằng 67,7% dự toán năm và tăng 28,3% so với cùng kỳ năm trước. Một số DN, tập đoàn tư nhân lớn đã mạnh dạn đề xuất tham gia đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng chiến lược, quan trọng quốc gia như: đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, cảng hàng không, đường sắt đô thị, các dự án hạ tầng công nghệ số…

Sau gần 40 năm Đổi mới, khu vực KTTN đạt được thành quả gì và đâu là những điểm còn hạn chế, thưa bà?

Gần 40 năm Đổi mới, KTTN nước ta đã liên tục phát triển, khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, là kênh huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, tạo việc làm, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy hội nhập quốc tế, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước.

Đến nay, khu vực KTTN có hơn 963.000 DN và hơn 5 triệu HKD đang hoạt động, duy trì tốc độ tăng trưởng khá, là khu vực có đóng góp lớn nhất trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng khoảng 50% GDP. Giai đoạn từ năm 2016 đến nay, tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN thường xuyên duy trì ở mức 6 - 8%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Khu vực KTTN đã tạo ra số việc làm rất ấn tượng, góp phần thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt ở vùng nông thôn, địa bàn khó khăn.

KTTN cũng là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và dịch vụ. Một số DN tư nhân lớn đang từng bước khẳng định vị thế trên thị trường khu vực và toàn cầu, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng nội địa. Đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, tinh thần kinh doanh, tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên ngày càng mạnh mẽ, trách nhiệm xã hội, đạo đức, văn hóa ngày càng lan tỏa sâu rộng...

Mặc dù vậy, khu vực KTTN vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng, nội lực, chưa đóng góp xứng đáng cho kinh tế quốc gia. Mục tiêu phát triển KTTN đề ra tại Nghị quyết Trung ương 10-NQ/TW năm 2017 đạt 1,5 triệu DN và đóng góp 55% GDP vào năm 2025 vẫn chưa đạt được. Chúng ta chưa có các tập đoàn lớn mang tính dẫn dắt nền kinh tế, chưa có DN lọt vào TOP 500 DN hàng đầu thế giới. Gần 98% số DN có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế. Năng suất lao động của khu vực KTTN thấp hơn khu vực DN FDI và DN nhà nước; tỷ lệ DNTN tham gia chuỗi cung ứng của DN FDI còn thấp. Một bộ phận DNTN chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh bạch; thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh của một bộ phận doanh nhân còn hạn chế.

Tháo gỡ “điểm nghẽn” để doanh nghiệp lớn mạnh

Một số ý kiến phản ánh, đến nay vẫn có tình trạng DN “sợ lớn, không muốn lớn”. Bà nhìn nhận như thế nào về phản ánh này?

Tôi cho rằng nhận định này phản ánh đúng một phần thực trạng hiện nay. Việc một số DN còn e ngại mở rộng quy mô không phải vì họ thiếu khát vọng phát triển, mà có nguyên nhân do lo ngại những rào cản về thủ tục hành chính (TTHC), chi phí tuân thủ pháp luật, và áp lực từ công tác thanh tra, kiểm tra khi DN lớn lên.

Xác định thể chế vẫn là điểm nghẽn của điểm nghẽn, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã đề ra các giải pháp đột phá, căn cơ nhằm tháo gỡ các rào cản, tạo sự yên tâm cho DN đầu tư, mở rộng kinh doanh. Nghị quyết yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện số hóa, áp dụng triệt để trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong thực hiện các quy trình, TTHC. Trong năm 2025 phải hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh (ĐKKD) không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp; thực hiện cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý TTHC, 30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% ĐKKD và tiếp tục cắt giảm mạnh trong những năm tiếp theo.

Nghị quyết cũng yêu cầu chấm dứt tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lắp, kéo dài, không cần thiết; bảo đảm nguyên tắc chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra mỗi năm 1 lần đối với DN, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng về việc DN vi phạm; xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng thanh tra, kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho DN.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW, các bộ, ngành, địa phương đang khẩn trương xây dựng kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa TTHC. Tính đến ngày 30/6/2025, đã có 872 TTHC, 118 ĐKKD được cắt giảm, đơn giản hóa. Theo dự thảo phương án đề xuất, các bộ dự kiến cắt giảm, đơn giản hóa 2.762/4.888 thủ tục (khoảng 56,5%). Số lượng ĐKKD dự kiến cắt giảm là 1.773/7.806 điều kiện (khoảng 22,7%). Các bộ, địa phương quán triệt đến toàn thể công chức, viên chức, người lao động về tinh thần đồng hành phục vụ DN, coi DN là đối tượng phục vụ, xóa bỏ cơ chế xin - cho, hành vi cục bộ ngành, địa phương. Lấy chất lượng, sự hài lòng của người dân, DN làm căn cứ quan trọng đánh giá cán bộ; nâng cao kỷ luật, kỷ cương, sự tận tụy, chuyên nghiệp trong giải quyết TTHC, vướng mắc cho người dân.

Với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, tin tưởng rằng môi trường kinh doanh sẽ ngày càng được hoàn thiện, thuận lợi, tạo tiền đề vững chắc để DN yên tâm phát triển, không chỉ muốn lớn mà còn có thể lớn một cách bền vững.

203.jpg
7 tháng đầu năm 2025, số vốn đăng ký tăng thêm của doanh nghiệp đang hoạt động đạt hơn 2,4 triệu tỷ đồng

Kỳ vọng làn sóng doanh nghiệp mới

Với vai trò là cơ quan tham mưu phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Tài chính tham mưu, đề xuất nhiều chính sách, giải pháp đột phá để KTTN Việt Nam. Xin bà chia sẻ cụ thể hơn về công tác này, đặc biệt là những cải cách liên quan đến phát triển DN?

Với tinh thần “thần tốc, bứt phá”, “vừa chạy vừa xếp hàng”, “chuẩn bị từ sớm, từ xa” để kịp thời thể chế hóa và đưa Nghị quyết số 68-NQ/TW vào cuộc sống, chỉ chưa đầy 2 tuần sau khi Nghị quyết được ban hành, ngày 16/5/2025, Bộ Tài chính đã kịp thời tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị quyết số 138/NQ-CP về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW và báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN ngay trong Kỳ họp thứ 9. Đồng thời, trong cùng ngày, Bộ tiếp tục tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị quyết số 139/NQ-CP về Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội.

Tại Kỳ họp thứ 9, Bộ đã báo cáo Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật số 90/2025/QH15 sửa đổi 8 luật trong lĩnh vực tài chính; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật DN; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 168/2025/NĐ-CP, trong đó bổ sung, sửa đổi nhiều quy định, đơn giản hóa hồ sơ, giảm thời hạn giải quyết TTHC, bảo đảm 100% TTHC về đăng ký DN, HKD được thực hiện trực tuyến toàn trình cấp độ cao nhất và phi địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh.

Trong lĩnh vực quản lý thuế đối với HKD, Bộ đã tích cực làm việc với các nhà cung cấp giải pháp để hỗ trợ HKD ứng dụng hóa đơn điện tử. Tính đến hết tháng 7/2025, đã có gần 56.700 HKD đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, đạt hơn 150% kế hoạch. Bộ Tài chính cũng đang nghiên cứu xây dựng Luật Quản lý thuế mới để bổ sung quy định bãi bỏ hình thức thuế khoán và đề xuất phương pháp quản lý thuế phù hợp với HKD.

Ngoài ra, Bộ Tài chính đang khẩn trương xây dựng các nghị định để hướng dẫn chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho DN vay vốn thực hiện dự án xanh, tuần hoàn, ESG thông qua các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; nghị định về hoạt động của Quỹ Phát triển DN nhỏ và vừa; nghị định hướng dẫn chính sách miễn, giảm thuế thu nhập DN, thu nhập cá nhân để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; miễn thuế thu nhập DN trong 3 năm đối với DN nhỏ và vừa; hướng dẫn DN trích lập quỹ phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; chính sách khấu trừ thuế đối với chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).

Với hàng loạt giải pháp đó, bà kỳ vọng như thế nào về sự phát triển của KTTN?

Trong thời gian tới, tôi kỳ vọng khu vực KTTN sẽ có bước phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. Cụ thể, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 2 triệu DN hoạt động, trong đó hình thành được ít nhất 20 tập đoàn tư nhân có năng lực cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đến năm 2045, Việt Nam cần có những DNTN tầm cỡ khu vực và thế giới, góp phần khẳng định vị thế quốc gia.

Để đạt được điều đó, chúng tôi sẽ tiếp tục cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng tiếp cận các nguồn lực. Đồng thời, sẽ có các chính sách hỗ trợ DNTN đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Tôi cũng đặc biệt kỳ vọng vào quá trình chuyển đổi HKD thành DN, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, từ đó tạo ra làn sóng DN mới có năng lực cạnh tranh và thích ứng cao.

Với sự đồng hành của Nhà nước, sự nỗ lực của cộng đồng DN và sự ủng hộ của toàn xã hội, tôi tin tưởng khu vực KTTN sẽ tiếp tục khẳng định vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế đất nước, đóng góp ngày càng lớn vào GDP, tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.

Kết nối đầu tư