3 trụ cột chính của Chiến lược năng lượng Việt Nam trong kỷ nguyên thương mại mới

0:00 / 0:00
0:00

(BĐT) - Tại Hội thảo Hợp tác kinh tế quốc tế về năng lượng và thương mại tự do tổ chức ngày 16/12, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhấn mạnh 3 trụ cột chính của Chiến lược năng lượng Việt Nam trong kỷ nguyên thương mại mới để kiến tạo tương lai xanh.

Hội thảo Hợp tác kinh tế quốc tế về năng lượng và thương mại tự do tổ chức chiều ngày 16/12, tại Hà Nội
Hội thảo Hợp tác kinh tế quốc tế về năng lượng và thương mại tự do tổ chức chiều ngày 16/12, tại Hà Nội

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, năng lượng và thương mại tự do không còn là hai câu chuyện riêng biệt mà đã hòa quyện làm một, trở thành động lực kép định hình nền kinh tế toàn cầu trong thế kỷ 21.

“Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà yêu cầu về xanh là “tấm hộ chiếu” mới của thương mại quốc tế. Với độ mở nền kinh tế rất cao và là thành viên của nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam đang cảm nhận sâu sắc sự thay đổi này. Những hàng rào thuế quan truyền thống đang dần được dỡ bỏ, nhưng thay vào đó là những hàng rào kỹ thuật xanh ngày càng kiên cố. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh châu Âu hay các đạo luật tương tự đang được xem xét tại Mỹ và các thị trường lớn khác là những ví dụ điển hình”, ông Tuấn nêu thực tế.

Với xu thế đó, nếu sản phẩm của Việt Nam từ đôi giày, cái áo đến vi mạch điện tử được sản xuất bằng nguồn năng lượng “nâu”, chúng sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh, bất chấp thuế nhập khẩu có về 0%. Do đó, chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam không chỉ là câu chuyện bảo vệ môi trường mà là câu chuyện sống còn của năng lực cạnh tranh quốc gia.

Về bức tranh chuyển dịch năng lượng của Việt Nam hiện nay, ông Tuấn thông tin, tại Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ về đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Đây là một mệnh lệnh chính trị và kinh tế, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam. Để hiện thực hóa cam kết đó, Quy hoạch điện VIII hiệu chỉnh đã được phê duyệt đưa ra một lộ trình đầy tham vọng với việc ưu tiên tối đa cho năng lượng tái tạo, lộ trình giảm đốt than, khí LNG như một cầu nối đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn cũng như yêu cầu về công nghệ để đáp ứng. “Trong bối cảnh đó, giải pháp tối ưu nhất cho Việt Nam chính là hợp tác quốc tế sâu rộng và thực chất. Chúng ta xác định một chiến lược hợp tác năng lượng dựa trên ba trụ cột chính”, ông Tuấn nhìn nhận.

Cụ thể, trụ cột 1 là hợp tác về tài chính xanh và chia sẻ rủi ro. Việt Nam đánh giá cao và đang tích cực triển khai Thỏa thuận Đối tác chuyển dịch năng lượng bình đẳng (JETP) với nhóm các đối tác quốc tế. "Tuy nhiên, chúng ta cần nhiều hơn thế. Để giải quyết điều này, chúng ta cần kêu gọi các cơ chế tài chính hỗn hợp. Nghĩa là, sử dụng nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức phát triển quốc tế để làm vốn mồi, giúp giảm thiểu rủi ro và nâng cao tính khả thi tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo, từ đó thu hút dòng vốn tư nhân khổng lồ đang chờ đợi", ông Tuấn cho biết.

Trụ cột 2 là hợp tác công nghệ và R&D chuyển từ mô hình mua bán thiết bị đơn thuần sang mô hình hợp tác phát triển và chuyển giao công nghệ, khuyến khích các tập đoàn năng lượng hàng đầu thế giới không chỉ đến đây để bán tuabin hay tấm pin mà thay vào đó là thiết lập các trung tâm R&D, hợp tác với các viện trường của Việt Nam để nội địa hóa công nghệ, đặc biệt là công nghệ lưới điện thông minh và lưu trữ năng lượng…

Trụ cột 3 là hợp tác về cơ chế chính sách và thị trường. Theo ông Tuấn, công nghệ không thể đi trước thể chế, do đó, cần nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý cho cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), phát triển thị trường tín chỉ carbon… để xây dựng một thị trường điện cạnh tranh minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, hợp tác khu vực, đặc biệt là việc hiện thực hóa Lưới điện ASEAN để mua bán điện xuyên biên giới, là chìa khóa để tối ưu hóa nguồn lực và cân bằng tải trong khu vực.

Ông Đặng Huy Đông, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quy hoạch và phát triển cho rằng, để đạt được mức tăng kinh tế hai con số thời gian tới, Việt Nam phải tiếp tục thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế vào những ngành và lĩnh vực chiến lược chủ lực cho giai đoạn tới như: kết cấu hạ tầng, logistics, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo… Trong đó, việc đảm bảo nguồn cung ứng điện ổn định, tin cậy, với giá cả cạnh tranh, là điều kiện tiên quyết. Điều này chỉ có thể đạt được khi chúng ta hóa giải được năm vấn đề, thách thức của ngành năng lượng mới giúp chúng ta vượt qua những thách thức và tận dụng hết các cơ hội mà những biến động địa chính trị, xu thế phi toàn cầu hóa, địa phương hóa chuỗi cung ứng và những lợi thế của các hiệp định FTA thế hệ mới mang lại.

Kết nối đầu tư