Thúc đẩy phòng vệ thương mại, tăng sức đề kháng cho DN

(BĐT) - Với độ mở kinh tế cao và tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam cần chủ động sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại (PVTM) để bảo vệ thị trường nội địa. Ông Chu Thắng Trung, Phó Cục trưởng Cục PVTM thuộc Bộ Công Thương cho rằng, việc chủ động sử dụng các biện pháp PVTM chính là “tấm lá chắn” để bảo vệ doanh nghiệp (DN) và nền sản xuất trong nước trước cạnh tranh không lành mạnh từ hàng hóa nhập khẩu.

Việt Nam đang ngày càng chủ động hơn trong việc bảo vệ doanh nghiệp và nền sản xuất trong nước. Ảnh: Tiên Giang
Việt Nam đang ngày càng chủ động hơn trong việc bảo vệ doanh nghiệp và nền sản xuất trong nước. Ảnh: Tiên Giang

Bộ Công Thương vừa có quyết định điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá (CBPG) đối với một số sản phẩm gạch gốm, sứ ốp lát nhập khẩu từ Ấn Độ (mã vụ việc: AD23).

Quyết định này được ban hành căn cứ theo kết quả thẩm định theo quy định của pháp luật về PVTM đối với Hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp CBPG được nộp đầy đủ và hợp lệ ngày 2/7/2025 bởi các DN đại diện cho ngành sản xuất trong nước. Theo các DN, sản phẩm gạch gốm, sứ ốp lát có xuất xứ từ Ấn Độ đã và đang bán phá giá, gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất của Việt Nam.

Trước đó, tháng 7/2025, Bộ Công Thương có quyết định áp dụng thuế CBPG chính thức với một số sản phẩm thép cán nóng (HRC) nhập khẩu từ Trung Quốc, dựa trên kết quả điều tra xác định có hành vi bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Theo đó, mức thuế CBPG chính thức được áp dụng với hàng hóa bị điều tra từ Trung Quốc là 23,10 - 27,83%.

Trao đổi với phóng viên, ông Chu Thắng Trung, Phó Cục trưởng Cục PVTM thuộc Bộ Công Thương cho biết, việc áp dụng biện pháp nêu trên là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế về PVTM.

Theo ông Trung, trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động phức tạp, cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, nhiều quốc gia đẩy mạnh áp dụng các biện pháp PVTM để bảo vệ sản xuất trong nước và duy trì lợi thế cạnh tranh.

Tính đến nay, tổng số vụ việc điều tra PVTM đối với hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam khoảng 290 vụ việc. Nửa đầu năm 2025, hàng xuất khẩu Việt Nam đối mặt với 15 vụ điều tra PVTM từ 9 thị trường. Trong khi đó, cơ quan PVTM Việt Nam đã tiến hành điều tra, rà soát 9 vụ việc và khởi xướng thêm 2 vụ rà soát mới, đồng thời xử lý 4 hồ sơ CBPG và chống lẩn tránh biện pháp mới. “Các biện pháp PVTM đã mang lại lợi ích thiết thực, góp phần bảo vệ sản xuất trong nước và tăng thu ngân sách nhà nước”, ông Trung nhấn mạnh.

TS. Lê Quốc Phương, chuyên gia thương mại nhìn nhận, việc triển khai và áp dụng các biện pháp PVTM trên cho thấy, Việt Nam ngày càng chủ động hơn trong việc bảo vệ sản xuất trong nước trước cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nhập khẩu. Điều này giúp tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, hỗ trợ DN vượt qua khó khăn và duy trì uy tín trên thị trường quốc tế.

Ông Phương cho biết, trước đây, công tác PVTM của Việt Nam còn yếu khiến DN tham gia xuất khẩu hàng hóa bị thiệt thòi. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới. Nhờ đó, Việt Nam đã có thêm kinh nghiệm trong vấn đề này. Cơ quan PVTM đã được thành lập và dần định hình năng lực, góp phần hỗ trợ DN bảo vệ sản xuất trong nước.

Nhận định về tình hình thương mại quốc tế thời gian tới, một số chuyên gia cho rằng, trong xu hướng hội nhập mạnh mẽ, hàng rào phi thuế quan sẽ tăng lên, trong đó PVTM được xem là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ sản xuất trong nước. Khi PVTM trở thành một biện pháp tất yếu để tránh thiệt hại từ hàng nhập khẩu, Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc triển khai thực các biện pháp này.

Các chuyên gia lưu ý, việc áp dụng các biện pháp PVTM như CBPG, chống trợ cấp và tự vệ, chống lẩn tránh đòi hỏi sự nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng để bảo đảm tuân thủ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như các FTA mà Việt Nam tham gia. Do đó, để chủ động bảo vệ sản xuất trong nước, không chỉ cơ quan quản lý nhà nước về PVTM phải nâng cao năng lực mà DN Việt Nam cũng phải cải thiện năng lực pháp lý, chất lượng sản phẩm và minh bạch trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Kết nối đầu tư