Nới lỏng tín dụng, cách nào để kiểm soát rủi ro?

(BĐT) - Dòng tiền giá rẻ từ ngân hàng đang được đẩy vào nền kinh tế nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cao, cùng với đó là những rủi ro tiềm ẩn nếu không được quản lý một cách thận trọng. Do đó, bên cạnh các giải pháp nâng cao năng lực quản trị của ngành ngân hàng, một số chuyên gia đề xuất cần áp dụng công nghệ giám sát rủi ro hệ thống theo thời gian thực để có giải pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả.

Đến cuối tháng 7/2025, dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024. Ảnh: Lê Tiên
Đến cuối tháng 7/2025, dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024. Ảnh: Lê Tiên

Tín dụng bất động sản tăng 36%

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, đến cuối tháng 7/2025, dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024. Ngay từ đầu năm, NHNN đặt chỉ tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng là 16% và đã phân bổ chỉ tiêu cho từng ngân hàng. Đến ngày 31/7, NHNN tiếp tục tăng thêm chỉ tiêu tín dụng cho các ngân hàng.

Điểm đáng chú ý trong cơ cấu phân bổ tín dụng tại nhiều ngân hàng là tỷ trọng dành cho lĩnh vực bất động sản ở mức khá cao. Cụ thể, tính đến ngày 30/6/2025, tỷ trọng tín dụng bất động sản tại Techcombank, SHB, VPBank và Vietbank lần lượt là 33,6%, 27,5%, 23,2% và 20,4%. Số liệu mới nhất của NHNN cũng cho thấy, tính đến 31/5/2025, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.640.682 tỷ đồng (tăng 36% so với cùng kỳ năm trước), đạt mức cao nhất kể từ năm 2023.

Theo Bộ Xây dựng, tổng dư nợ tín dụng bất động sản tăng mạnh cho thấy dòng vốn từ ngân hàng vào lĩnh vực này đang được nới lỏng hơn và có dấu hiệu phục hồi niềm tin từ cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% trong năm 2025 (tương đương khoảng 2,5 triệu tỷ đồng), có nhiều khả năng tín dụng bất động sản còn tiếp tục tăng, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất được điều chỉnh thấp để hỗ trợ mua nhà và gói tín dụng ưu đãi cho người trẻ.

Ở khía cạnh khác, tăng trưởng tín dụng được thúc đẩy mạnh nhờ mặt bằng lãi suất ở mức thấp. Đến ngày 20/7/2025, lãi suất tiền gửi bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của ngân hàng thương mại ở mức 4,18%/năm, ổn định so với cuối năm 2024; lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới ở mức 6,53%/năm, giảm khoảng 0,4%/năm so với cuối năm 2024.

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết, mới đây, NHNN đã triệu tập các tổ chức tín dụng (TCTD) để bàn giải pháp nhằm ổn định lãi suất huy động và tiếp tục xem xét trong điều kiện tài chính cho phép giảm lãi suất cho vay đối với người dân và doanh nghiệp. VNBA kêu gọi các TCTD tùy theo khả năng tài chính của mình xem xét giảm lãi suất cho vay và triển khai chương trình tín dụng phù hợp nhằm tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng với lãi suất hợp lý. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng tín dụng đi kèm với an toàn hoạt động.

15.jpg
Tình hình cấp tín dụng trong hoạt động kinh doanh bất động sản - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước (Đơn vị: tỷ đồng)

Giám sát chặt chẽ các chỉ số an toàn

Liên quan đến kiểm soát chất lượng tín dụng, NHNN đã ban hành Thông tư 14/2025/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 15/9/2025 thay thế Thông tư 41/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn.

Theo SSI Research, Thông tư 14 quy định chi tiết hơn cấu trúc vốn theo chuẩn mực Basel III. Mặc dù Thông tư 14 quy định các yêu cầu nghiêm ngặt về tỷ lệ an toàn vốn, nhưng cũng đưa ra những điều chỉnh cho phép các ngân hàng mở rộng tín dụng mà không vi phạm ngưỡng an toàn vốn.

Theo SSI Research, Thông tư 14 tạo điều kiện tăng trưởng tín dụng hiệu quả hơn song cũng tiềm ẩn rủi ro nếu không được quản lý một cách thận trọng, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ tín dụng so với GDP đang ở mức cao. “Nếu không áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng, NHNN cần áp dụng bộ công cụ giám sát linh hoạt hơn và tăng cường giám sát rủi ro thanh khoản cũng như rủi ro lãi suất”, báo cáo của SSI Research nhận định.

TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính (Học viện Tài chính) cho rằng, chủ trương nới lỏng tín dụng là cần thiết và tích cực trong bối cảnh cần đẩy mạnh nguồn vốn để hỗ trợ nền kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng từ 8,3-8,5% trong năm nay. Nếu dòng vốn đổ vào nền kinh tế hiệu quả, giúp tăng trưởng kinh tế khả quan thì doanh nghiệp có khả năng trả nợ. Ngược lại, nếu kiểm soát vốn tín dụng không chặt chẽ thì có thể dẫn đến một số rủi ro. Theo đó, tín dụng tăng nhanh cũng đi kèm với rủi ro lạm phát tăng cao, đồng thời, nợ xấu có xu hướng đi lên ở nhiều ngân hàng đặt ra vấn đề phải tiếp tục theo dõi để tính trước các giải pháp ứng phó kịp thời.

Cùng quan điểm, TS. Châu Đình Linh, giảng viên Đại học Ngân hàng TP.HCM cho rằng, trong những năm gần đây, NHNN đã thực hiện nhiều chủ trương và chính sách nâng cao chất lượng quản trị của hệ thống ngân hàng. Mới đây nhất là Thông tư 14 với các quy định về quản trị rủi ro theo hướng giảm các công cụ giám sát “hành chính” thay vào đó là yêu cầu nâng chất lượng quản trị qua các chỉ số an toàn vốn, hướng tới chuẩn mực Basel III. “Để đạt hiệu quả giám sát quản trị cao hơn, cần cải thiện theo hướng tăng cường công nghệ giám sát theo thời gian thực thay vì chờ báo cáo định kỳ của các TCTD”, ông Linh khuyến nghị.

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, tín dụng toàn hệ thống 7 tháng đầu năm tăng khá cao, trong đó, tín dụng vào bất động sản và chứng khoán cao hơn mức bình quân chung song phù hợp với định hướng tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản.

“Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn hiện vẫn dưới ngưỡng 30%. Đồng thời, NHNN liên tục chỉ đạo các TCTD cân đối vốn theo kỳ hạn, đảm bảo an toàn hệ thống. NHNN sẽ theo dõi sát diễn biến, tùy từng giai đoạn mà đặt ưu tiên phù hợp, hướng tới mục tiêu chung là ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách bền vững”, bà Hồng khẳng định.

Bên cạnh đó, Thống đốc lưu ý, về dài hạn, cần có giải pháp đồng bộ để hỗ trợ chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả hơn. Trong đó, cần phát triển mạnh mẽ thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu vốn trung - dài hạn, từ đó giảm áp lực lên nguồn vốn ngắn hạn của hệ thống ngân hàng.

Kết nối đầu tư