Những dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Trên khắp thế giới, các thị trường đang đưa ra những tín hiệu cảnh báo rằng, nền kinh tế toàn cầu đang chênh vênh trên bờ vực suy thoái. Câu hỏi về một cuộc suy thoái không còn là “liệu nó có xảy ra hay không”, mà thay vào đó là “khi nào”.

Trong vài tuần vừa qua, những tín hiệu về một cuộc suy thoái ngày càng tăng nhanh khi thị trường toàn cầu phải vật lộn với sức ép lớn từ các động thái thắt chặt chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nhằm kiềm chế lạm phát trong nước.

Theo một mô hình xác suất của công ty nghiên cứu Ned Davis Research, ở thời điểm hiện tại, khả năng kinh tế toàn cầu rơi vào một cuộc suy thoái là 98,1%. Những lần gần nhất mô hình của Ned Davis Research cho ra tỷ lệ cao đến mức này là suy thoái năm 2020 và khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009.

Khi các nhà kinh tế đưa ra cảnh báo về sự suy thoái, họ thường dựa vào đánh giá của bản thân trên nhiều chỉ số khác nhau. Dưới đây là 5 dấu hiệu cho thấy nền kinh tế toàn cầu đang tiến sát bờ vực suy thoái.

Ảnh minh họa: Internet

Ảnh minh họa: Internet

Đồng USD mạnh hơn

Đồng USD có sức ảnh hưởng lớn tới kinh tế toàn cầu và nền tài chính quốc tế. Và giờ đây, giá đồng bạc xanh đang mức cao nhất trong vòng hai thập kỷ qua. Lời giải thích đơn giản nhất cho điều này nằm ở các quyết định của Fed.

Khi Fed bắt đầu tăng lãi suất kể từ tháng 3, đồng USD trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư trên khắp thế giới.

Trong bất kỳ điều kiện kinh tế, đồng USD được xem là một kênh lưu trữ giá trị an toàn. Còn trong điều kiện kinh tế bất ổn - chẳng hạn như trong đại dịch Covid-19 hoặc xung đột ở Đông Âu, giới đầu tư càng có thêm động lực để mua vào USD.

Trong khi đồng USD mạnh lên mang lại lợi ích đáng kể cho người Mỹ du lịch ở nước ngoài, điều này khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới "đau đầu".

Tỷ giá đồng Bảng Anh, Euro, Nhân dân tệ, Yên cùng nhiều đồng tiền khác so với USD đều giảm mạnh, khiến cho các quốc gia phải nhập khẩu hàng hóa thiết yếu, như lương thực, nhiên liệu, với giá đắt đỏ hơn. Để ứng phó với tình hình, các ngân hàng trung ương vốn đang chống chọi với lạm phát do đại dịch gây ra đã phải tăng lãi suất để cứu đồng nội tệ.

Về phía Mỹ, đồng USD mạnh lên đang gây ra sự bất ổn trên Phố Wall vì nhiều công ty trong S&P 500 có hoạt động kinh doanh khắp thế giới. Theo một ước tính của Morgan Stanley, mỗi khi chỉ số Dollar Index tăng 1%, thì lợi nhuận của các công ty trong S&P 500 giảm 0,5%.

Ảnh minh họa: Internet

Ảnh minh họa: Internet

Động lực kinh tế Mỹ suy yếu

Động lực số một của nền kinh tế Mỹ là tiêu dùng; tuy nhiên, người tiêu dùng nước này đang cảm thấy mệt mỏi. Sau hơn một năm giá cả tăng cao về mọi thứ trong khi mức tăng lương không theo kịp, người tiêu dùng Mỹ đang phải thắt chặt hầu bao.

“Khó khăn do lạm phát gây ra đang khiến người tiêu dùng Mỹ phải tiêu đến tiền tiết kiệm của mình”, ông Gregory Daco, nhà kinh tế trưởng tại EY-Parthenon cho biết. Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân tháng 8 tại Mỹ vẫn chỉ ở mức chỉ 3,5%, sát mức thấp nhất kể từ năm 2008 và thấp hơn tỷ lệ khoảng 9% trước đại dịch.

Một lần nữa, lý do đằng sau sự suy thoái có liên quan đến Fed. Lãi suất ở Mỹ đang tăng nhanh chưa từng thấy trong lịch sử. Điều này khiến lãi suất vay thế chấp mua nhà lên mức cao nhất trong hơn một thập kỷ trở lại đây. Trong khi đó, người Mỹ đang cùng lúc chịu hai đòn giáng là lãi suất đi vay và giá cả hàng hóa tăng lên, đặc biệt là các mặt hàng, dịch vụ thiết yếu như thực phẩm và nhà ở.

Người Mỹ đã mở ví chi tiêu trong thời gian phong tỏa năm 2020, góp phần giúp nền kinh tế thoát khỏi cuộc suy thoái do đại dịch. Kể từ đó, viện trợ của chính phủ đã "bốc hơi" và lạm phát bén rễ, đẩy giá cả lên với tốc độ nhanh nhất trong 40 năm. Kết quả, người tiêu dùng mất khả năng chi tiêu.

Ảnh minh họa: Internet

Ảnh minh họa: Internet

Doanh nghiệp Mỹ thắt lưng buộc bụng

Hoạt động kinh doanh đã bùng nổ trên khắp các ngành trong phần lớn thời kỳ đại dịch, ngay cả khi lạm phát cao ăn mòn lợi nhuận. Đó là nhờ sự kiên trì của người mua sắm Mỹ, vì các doanh nghiệp phần lớn đã chuyển chi phí cao hơn cho họ. Tuy nhiên, điều này không kéo dài lâu.

Vào giữa tháng 9, một công ty có hoạt động kinh doanh đóng vai trò như một chỉ báo cho xu hướng kinh tế toàn cầu đã gây sốc cho nhà đầu tư. FedEx, công ty vận tải hoạt động tại hơn 200 quốc gia, đã bất ngờ điều chỉnh dự báo kết quả kinh doanh, đồng thời cảnh báo rằng nhu cầu đang suy yếu và lợi nhuận của Công ty có thể giảm hơn 40%.

Trong một cuộc phỏng vấn, CEO của FedEx nói rằng, sự suy giảm trong hoạt động vận tải là dấu hiệu cho thấy suy thoái kinh tế toàn cầu đang rình rập.

Không chỉ FedEx, đầu tuần trước, cổ phiếu Apple cũng lao dốc sau khi Bloomberg đưa tin nói rằng công ty này sẽ hủy bỏ kế hoạch tăng sản lượng iPhone 14 do nhu cầu thấp hơn dự báo. Bên cạnh đó, hàng năm, đây là thời điểm các doanh nghiệp thường tăng cường tuyển nhân sự chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ, nhưng năm nay hầu hết doanh nghiệp duy trì tâm lý thận trọng hơn.

Julia Pollak, nhà kinh tế trưởng tại ZipRecruiter cho biết chưa ghi nhận mức tăng tuyển dụng thường thấy trong tháng 9 hàng năm với các công ty cần thêm nhân sự thời vụ. "Các công ty đang trì hoãn và chờ xem những điều kiện thực tế", ông nói.

Ảnh minh họa: Internet

Ảnh minh họa: Internet

Chứng khoán Mỹ rơi vào "thị trường gấu"

Phố Wall đã bị ảnh hưởng bởi sự thất thường và các cổ phiếu đang đi theo xu hướng như những gì đã diễn ra trong năm khủng hoảng 2008. Điều này ngược lại hoàn toàn với năm 2021, khi S&P 500 tăng 27% nhờ chính sách tiền tệ nới lỏng của Fed. "Bữa tiệc" chỉ kéo dài tới đầu năm 2022, trước khi lạm phát khiến nhà đầu tư lo lắng và Fed bắt đầu tăng lãi suất, cộng thêm kết thúc chương trình mua lại trái phiếu.

Kết quả, S&P 500 giảm gần 24% trong năm. Thậm chí, cả ba chỉ số chính của chứng khoán Mỹ đều nằm trong thị trường giá xuống, sau khi giảm ít nhất 20% so với mức đỉnh gần nhất.

Ngay cả thị trường trái phiếu, thường là một nơi trú ẩn an toàn khi giá trị cổ phiếu và các tài sản khác giảm, cũng rung lắc mạnh.

Một lần nữa, hãy đổ lỗi cho Fed. Lạm phát cùng với lãi suất tăng đã kéo giá trái phiếu xuống và khiến lợi suất trái phiếu tăng lên. Ngày 28/9, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm có lúc vượt 4%, mức cao nhất trong 14 năm qua. Theo sau đó lại là một đợt giảm mạnh do phản ứng với sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) vào thị trường trái phiếu nước này.

Lợi suất trái phiếu của Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) cũng đang tăng đột biến khi các ngân hàng trung ương khu vực này đồng loạt đi theo Fed trong việc nâng lãi suất để hỗ trợ đồng nội tệ.

Ảnh minh họa: Internet

Ảnh minh họa: Internet

Bất ổn địa chính trị, mâu thuẫn chính sách và giá cả tăng vọt

Không nơi nào có thể thấy được sự va chạm của các thảm họa kinh tế, tài chính và chính trị một cách rõ nét như nước Anh lúc này. Anh đã phải vật lộn với giá cả tăng vọt do cú sốc Covid-19, và tiếp đó là sự gián đoạn thương mại do xung đột Ukraine. Khi phương Tây cắt giảm nhập khẩu khí đốt tự nhiên của Nga, giá năng lượng đã tăng vọt và nguồn cung cấp giảm dần.

Tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi hơn một tuần trước, chính quyền của tân Thủ tướng Anh Liz Truss thông báo kế hoạch giảm thuế lớn nhất 50 năm. Kế hoạch này vấp phải sự chỉ trích của các nhà kinh tế bởi nó được đưa ra giữa lúc lạm phát ở Anh đang chạm ngưỡng kỷ lục.

Chính phủ Anh cho rằng, giảm thuế để khuyến khích đầu tư và tiêu dùng nội địa, đồng thời về mặt lý thuyết làm giảm tác động của suy thoái. Tuy nhiên, để thực hiện chương trình, Chính phủ Anh sẽ phải gánh thêm nợ.

Quyết định này đã gây hoảng loạn trên thị trường tài chính và Phố Downing. Các nhà đầu tư trên khắp thế giới bán tháo hàng loạt trái phiếu của Anh, đẩy đồng Bảng xuống mức thấp nhất so với USD trong gần 230 năm.

Tình thế này buộc Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) có biện pháp can thiệp với một đợt mua lại trái phiếu kéo dài hơn 2 tuần. Dù tình hình đã ổn định trở lại, vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết.

Người Anh, vốn đang trong cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt với lạm phát 10% - mức cao nhất so với bất kỳ nền kinh tế G7 nào - hiện bất an trước chi phí đi vay cao hơn. Lãi suất mới có thể khiến hàng triệu khoản thanh toán nợ thế chấp hàng tháng của người mua hàng đội thêm hàng trăm hoặc thậm chí hàng nghìn Bảng Anh mỗi tháng.

Dù có sự đồng thuận rằng suy thoái toàn cầu có thể xảy ra vào năm 2023, song không thể dự đoán được mức độ nghiêm trọng của nó như thế nào hoặc kéo dài bao lâu. Không phải cuộc suy thoái nào cũng thiệt hại nhiều như cuộc khủng hoảng tài chính 2007 - 2009; nhưng tất nhiên, cuộc suy thoái nào cũng đau đớn.

Một số nền kinh tế, đặc biệt là Mỹ, với thị trường lao động mạnh mẽ và người tiêu dùng kiên cường, sẽ có khả năng chịu đòn tốt hơn những nền kinh tế khác.

"Chúng ta đang ở trong vùng biển chưa được thăm dò trong những tháng tới. Triển vọng kinh tế toàn cầu và phần lớn dân số thế giới giờ đây rất mờ mịt. Những thách thức này sẽ đo sức chống chịu của các nền kinh tế và các xã hội", các nhà kinh tế tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), nhận định trong một báo cáo tuần trước.

Tuy nhiên, nhóm này cũng nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng sẽ là động lực cho những thay đổi đáng giá để cải thiện đời sống và giúp cho các nền kinh tế trở nên mạnh mẽ hơn.

“Các doanh nghiệp phải thay đổi. Đây là câu chuyện xuất hiện kể từ khi đại dịch Covid-19 khởi phát. Các doanh nghiệp không còn có thể tiếp tục đi theo con đường cũ. Đi liền với khủng hoảng luôn là những cơ hội”, bà Rima Bhatia, cố vấn kinh tế tại Gulf International Bank nhận xét.

Chuyên đề