Nhiều cơ hội kết nối doanh nghiệp FDI Australia với các nhà cung cấp nội địa

0:00 / 0:00
0:00

(BĐT) - Giữa Việt Nam và Australia đang có 3 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) chung; trong đó có 2 FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với nhiều cam kết đáng kể của Việt Nam dành cho các nhà đầu tư Australia. Với tác động cộng hưởng từ 3 FTA này và 12 FTA khác của Việt Nam, hai nước đang có nhiều cơ hội hợp tác, thu hút đầu tư, đặc biệt là tiềm năng kết nối với các nhà cung cấp nội địa.

Dự án Interflour Group (nhà đầu tư Australia) vận hành nhà máy xay bột mì và lúa mạch cho sản xuất bánh mì và bia tại Việt Nam. Ảnh Internet
Dự án Interflour Group (nhà đầu tư Australia) vận hành nhà máy xay bột mì và lúa mạch cho sản xuất bánh mì và bia tại Việt Nam. Ảnh Internet

Nhận định này được nhiều chuyên gia nêu ra tại Hội thảo trực tuyến "Tăng cường đầu tư trực tiếp của Australia vào Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP và RCEP" diễn ra ngày 22/12.

Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến tháng 11/2021, Australia có 545 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn là 1,94 tỷ USD.

Khảo sát doanh nghiệp năm 2021 của Auscham ASEAN cho thấy, lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các nhà đầu tư Australia là giáo dục và đào tạo (28%), vận tải - khách sạn - giải trí chiếm tỷ lệ 20%, dịch vụ chuyên môn là 16%, công nghiệp chế biến chế tạo là 16%; nông nghiệp là 8%...

Nhiều chuyên gia tại Hội thảo cho rằng, kết quả thu hút đầu tư này còn khá khiêm tốn so với tiềm năng hợp tác giữa hai nước. So với các đối tác, hiện FDI của Australia chỉ chiếm 0,5% tổng giá trị FDI tại Việt Nam và đứng thứ 19 trong danh sách các nền kinh tế có đầu tư FDI lớn nhất vào nước ta, trong khi Australia là một trong những quốc gia có đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn thứ 15 thế giới trong năm 2020.

Cùng với những cam kết mở cửa trong các hiệp định FTA của Việt Nam, trong Chiến lược Tăng cường gắn kết kinh tế Australia - Việt Nam vừa được công bố, hai nước đặt mục tiêu trở thành những đối tác thương mại Top 10 của nhau và tăng gấp đôi đầu tư song phương trong thời gian tới.

Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, nhưng theo kết quả khảo sát của Báo cáo "Đầu tư trực tiếp của Australia tại Việt Nam: Đánh giá hiệu quả thực tế và những giải pháp chính sách” của Nhóm nghiên cứu thuộc Chương trình Aus4Skills vừa được công bố, 87% cho biết sẽ tiếp tục kinh doanh với quy mô hiện tại, trong đó 25% sẽ tăng quy mô kinh doanh.

Các nhà đầu tư Australia còn cho biết đa số có kế hoạch gia tăng sử dụng đầu vào từ đối tác Việt Nam (53%). Lý do chính sử dụng đầu vào từ các đối tác Việt Nam là vì giá cả cạnh tranh và thuận tiện hơn so với việc mua từ các nguồn khác. Phần lớn các nhà cung cấp cho nhà đầu tư Australia hiện là doanh nghiệp tư nhân và cá nhân - hộ gia đình trong nước, chiếm tới 75%, cao hơn so với mức trung bình của các đối tác FDI tại Việt Nam (63%). Mặc dù vậy, một số đối tác trong nước không được lựa chọn là vì chất lượng kém hơn các nguồn khác, hay cách thức kinh doanh không phù hợp.

Từ thực tế đó, bà Phùng Thị Lan Phương - Trung tâm WTO và Hội nhập khuyến nghị, trong thời gian tới cần tăng cường các hoạt động kết nối giữa các doanh nghiệp FDI Australia với các đối tác nội địa nhiều hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.

Muốn tận dụng tối đa những cơ hội đang có để thu hút nhà đầu tư Australia, Báo cáo đề xuất, Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng nguồn lao động, tăng cường kiểm soát tham nhũng, tăng cường đối thoại với các nhà đầu tư nước ngoài, hỗ trợ kết nối với đối tác nội địa và thúc đẩy các hoạt động thông tin, xúc tiến đầu tư.

Theo đánh giá Nhóm nghiên cứu, những vấn đề đang gây cản trở nhiều nhất đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI Australia tại Việt Nam là: thủ tục hành chính phiền hà, hệ thống thuế còn nhiều bất cập, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao, phát sinh nhiều tiêu cực và chi phí không chính thức, cùng với đó là các hạn chế về cơ sở hạ tầng, về nguồn lao động chất lượng cao…

Để có thể giải quyết được các vấn đề trên, TS. Uwe Kaufmann - Giảng viên cao cấp của Viện Kinh doanh Australia cho rằng, Việt Nam cần cải cách toàn diện khu vực công, thường xuyên rà soát quy định pháp luật trong nước, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về đầu tư, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch cho các nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm nhà đầu tư Australia… Đồng thời thường xuyên cập nhật thông tin theo hướng dễ tiếp cận về luật, quy định và cơ hội cho các nhà đầu tư.

“Trong bối cảnh dịch bệnh toàn cầu, Việt Nam có thể tăng cường thu hút đầu tư trong lĩnh vực y tế và công nghệ số, đẩy mạnh chuyển đổi số trong xúc tiến đầu tư, đồng thời nghiên cứu cách tiếp cận mở phù hợp với nhà đầu tư nước ngoài...”, ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đề xuất.

Chuyên đề