Kỳ vọng tăng trưởng bền vững hơn khi bỏ hạn mức tín dụng

0:00 / 0:00
0:00

(BĐT) - Chủ trương bỏ hạn mức tín dụng sau 14 năm thực thi được đánh giá là phù hợp ở thời điểm hiện nay, đặc biệt khi các quy định mới về chỉ tiêu an toàn tín dụng với các ngân hàng, giám sát dòng vốn vào những lĩnh vực rủi ro tạo điều kiện để cơ quan chức năng có thể kiểm soát dòng vốn tín dụng bằng các công cụ kỹ thuật. Các ngân hàng thương mại có điều kiện đẩy mạnh dòng vốn theo tín hiệu thị trường và năng lực cung ứng vốn.

Việc bỏ “room” tín dụng được xem là một bước đi phù hợp để tăng cường tính thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống ngân hàng. Ảnh: Chu Thắng
Việc bỏ “room” tín dụng được xem là một bước đi phù hợp để tăng cường tính thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống ngân hàng. Ảnh: Chu Thắng

Tại báo cáo chiến lược mới đây, SSI Research nhận định, việc bỏ hạn mức tín dụng là sự thay đổi hướng tới tăng trưởng bền vững hơn, do đó, kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ từng bước bãi bỏ hạn mức tín dụng toàn hệ thống từ năm 2026. Tuy vậy, nhiều khả năng cơ quan quản lý vẫn giữ lại một số công cụ điều tiết nhằm hướng dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên và kiểm soát tín dụng vào những lĩnh vực được xem là rủi ro trong từng giai đoạn phát triển kinh tế.

Theo đó, về khung quản trị rủi ro, NHNN có thể chuyển dịch sang giám sát dựa trên các tiêu chí quản trị tại Thông tư 14/2025/TT-NHNN về tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Thông tư 21/2025/TT-NHNN về xếp hạng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các thông tư này hướng tới yêu cầu ngân hàng nâng cao quản trị theo chuẩn mực tại Basel III, phương pháp tiếp cận rủi ro nội bộ (IRB), quy định chặt chẽ hơn về mức độ tập trung rủi ro và chất lượng tài sản, quản lý rủi ro thanh khoản chặt chẽ hơn. Đồng thời, tiệm cận chuẩn mực kế toán quốc tế (áp dụng IFRS 9) để nâng cao tính thận trọng trong đánh giá tổn thất tín dụng, đồng thời tăng cường tính minh bạch của bảng cân đối kế toán.

Cùng quan điểm đánh giá tích cực về triển vọng bỏ hạn mức tín dụng với công tác điều hành thị trường tiền tệ, Công ty Chứng khoán VNDIRECT cho rằng, việc thay thế cơ chế “hạn mức tín dụng” bằng cơ chế điều tiết dựa trên quản trị rủi ro vĩ mô và kiểm soát đầu vào sẽ giúp thị trường vận hành linh hoạt và phản ánh đúng rủi ro.

Giải pháp này được hỗ trợ bởi các công cụ kiểm soát được ban hành tại Thông tư 14/2025/TT-NHNN. Trong đó, điểm đáng chú ý nhất là kiểm soát tăng trưởng tín dụng qua bộ đệm vốn phản chu kỳ (CCyB). Đây là yêu cầu vốn bổ sung mà các tổ chức tín dụng phải duy trì trong giai đoạn kinh tế phát triển mạnh. CCyB giúp các ngân hàng duy trì sự ổn định tài chính bằng cách tạo ra bộ đệm vốn chống lại các cú sốc kinh tế và giảm thiểu rủi ro hệ thống. Thông tư 14 yêu cầu CCyB trong biên độ 0 - 2,5%, kích hoạt linh hoạt theo từng giai đoạn, phụ thuộc vào quyết định của Thống đốc NHNN. Khi tín dụng tăng trưởng nóng, NHNN có thể nâng CCyB để yêu cầu các ngân hàng nắm giữ thêm vốn dự phòng, qua đó tự động làm chậm lại đà mở rộng tín dụng và giảm rủi ro vĩ mô. Ngoài ra, việc áp dụng CCyB là cách chính thức hóa sự chuyển dịch chính sách từ kiểm soát đầu ra (hạn mức tín dụng) sang kiểm soát đầu vào (vốn yêu cầu). Đây là một công cụ giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, bảo đảm rằng chỉ các tổ chức tín dụng đủ vốn và năng lực quản trị mới có thể mở rộng quy mô tín dụng, từ đó nâng cao tính ổn định toàn hệ thống.

15.jpg
Việc bỏ hạn mức tín dụng buộc các ngân hàng phải tái cấu trúc danh mục tín dụng, chuyển trọng tâm sang mảng kinh doanh có rủi ro thấp và mang lại lợi nhuận bền vững hơn. Ảnh: Nhã Chi

Điểm đáng chú ý khác là Thông tư 14 điều hướng dòng tín dụng qua quy định về tài sản có rủi ro tín dụng (RWA), đồng thời áp dụng phương pháp tiêu chuẩn để tăng cường kiểm soát tín dụng bất động sản. Cụ thể, Thông tư 14 quy định 3 trường hợp cho vay bất động sản cụ thể, với các khoản phải đòi bất động sản không đủ tiêu chuẩn bị áp hệ số rủi ro cao nhất (100 - 250%). Bằng cách áp dụng hệ số rủi ro cao hơn đối với tiểu nhóm tài sản này, NHNN buộc các ngân hàng thương mại phải giữ lại nhiều vốn tự có hơn để đáp ứng yêu cầu về hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR), qua đó làm tăng chi phí vốn và hạn chế khả năng mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản có mức rủi ro cao. Nói cách khác, điều này buộc ngân hàng phải tái cấu trúc danh mục tín dụng, chuyển trọng tâm sang mảng có rủi ro thấp và mang lại lợi nhuận bền vững hơn.

Về định hướng bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng với từng ngân hàng, theo chuyên gia tài chính - ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu, đây là việc cần làm theo xu hướng quản trị ngân hàng hiện đại, căn cứ trên hiệu quả kiểm soát rủi ro và giúp các ngân hàng thương mại chủ động trong quản trị tín dụng. Trong những năm gần đây, lạm phát được kiểm soát tốt, nợ xấu dù còn dai dẳng nhưng đã có chuyển biến với các công cụ xử lý nợ xấu được cải thiện. NHNN cũng đã đặt ra các quy định về kiểm soát rủi ro với từng ngân hàng, do đó công cụ hạn mức tín dụng không còn cần thiết.

Cùng quan điểm, ông Đinh Tuấn Minh, Giám đốc nghiên cứu Trung tâm Nghiên cứu giải pháp thị trường cho các vấn đề kinh tế và xã hội (MASSEI) cho rằng, việc thử nghiệm điều hành kiểm soát tín dụng bằng các giải pháp kỹ thuật thay cho công cụ tài chính là phù hợp với bối cảnh và điều kiện thị trường hiện nay. Theo ông Minh, công cụ hạn mức tín dụng đã được áp dụng 14 năm qua, quãng thời gian khá dài đủ để kiểm nghiệm, đánh giá và chuẩn bị các yếu tố cần thiết để chuyển đổi cách thức kiểm soát tín dụng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc thay đổi từ hạn mức tín dụng sang thực hiện các công cụ kỹ thuật cần được thử nghiệm từng bước để các ngân hàng thương mại chuẩn bị và làm quen với cách thức báo cáo, cung cấp thông tin tín dụng cập nhật và kiểm soát việc cho vay theo phương thức mới. Cơ quan chức năng cũng cần thay đổi cách thức điều hành và giám sát rủi ro tín dụng trên thị trường và có các giải pháp điều chỉnh phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và năng lực cung ứng vốn của nền kinh tế.

Về tổng vốn tín dụng vào nền kinh tế sau khi áp dụng biện pháp này, ông Minh cho rằng, dòng vốn vẫn sẽ theo cung cầu thị trường, theo tín hiệu về kiểm soát rủi ro. Theo đó, nếu nền kinh tế vẫn lệ thuộc vào vốn tín dụng và nhu cầu vốn cao thì lãi suất huy động sẽ tăng, lãi suất tăng đến một mức độ nào đó sẽ làm giảm nhu cầu vay vốn và buộc các doanh nghiệp phải tìm cách huy động vốn khác, từ đó thúc đẩy thị trường vốn phát triển tích cực hơn.

Tại Công điện 128/CT-TTg ngày 6/8/2025 về một số nhiệm vụ, giải pháp quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, Thủ tướng yêu cầu NHNN khẩn trương xây dựng có lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để thực hiện từ năm 2026; trong đó cần xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí cho các tổ chức tín dụng hoạt động có hiệu quả, lành mạnh, có khả năng quản trị, điều hành tốt, tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và chỉ số chất lượng tín dụng an toàn cao..., bảo đảm công khai, minh bạch; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, giám sát và hậu kiểm, không để xảy ra rủi ro hệ thống, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đề ra.

Kết nối đầu tư