Gỡ điểm nghẽn, thúc đẩy công nghiệp khoáng sản phát triển bứt phá

(BĐT) - Khoáng sản là trụ cột cung ứng nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, vật liệu xây dựng, năng lượng… nhưng đang đối mặt với nhiều điểm nghẽn kéo dài từ khâu cấp phép, quy hoạch, thuế phí cho đến năng lực chế biến sâu. Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hoá và phát triển kinh tế xanh, việc tháo gỡ những rào cản này trở thành yêu cầu cấp bách để “đánh thức” tiềm năng tài nguyên, giúp ngành khoáng sản phát triển bền vững và có giá trị gia tăng cao hơn.

Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet

Tiềm năng lớn nhưng còn nhiều điểm nghẽn

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có trữ lượng khoáng sản lớn, đứng top đầu thế giới (không tính Trung Quốc) về trữ lượng đất hiếm, vonfram... Mặc dù vậy, theo ông Phan Chiến Thắng - Phó Tổng giám đốc Masan High-tech Materials, doanh thu của ngành khoáng sản Việt Nam vẫn thuộc nhóm thấp nhất toàn cầu.

Nguyên nhân chính là phần lớn sản phẩm vẫn ở dạng xuất khẩu thô, trong khi sản phẩm tinh chế có suất đầu tư lớn, giá thành cao, khó cạnh tranh. Bên cạnh đó, thời gian cấp phép khai thác và chế biến khoáng sản kéo dài, nhiều mỏ hết hạn chưa được gia hạn, khiến doanh nghiệp (DN) mất cơ hội đầu tư...

Ông Lê Văn Phụng - chuyên gia cao cấp về thuế cho biết, tại Thái Nguyên, nhiều DN sở hữu mỏ quặng nghèo, không đủ khả năng đầu tư công nghệ khai thác hiện đại, nhưng hàng năm vẫn phải gánh nhiều loại chi phí như tiền cấp quyền, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường, thuế đất… Một số DN khác đã chế biến sâu được sản phẩm nhưng lại rơi vào bế tắc đầu ra. Sản phẩm của họ chưa có nhu cầu trong nước, trong khi giá thành xuất khẩu quá cao dẫn tới khó tiêu thụ, mất tính cạnh tranh.

Theo ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư kí kiêm Trưởng ban Pháp chế thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện DN khai khoáng đang phải thực hiện đồng thời 2 nghĩa vụ tài chính lớn, gồm: thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên 2009 và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản 2010, tiếp tục được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024. Cả 2 khoản thu này đều nhằm bảo đảm Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản, nhưng nhiều ý kiến lo ngại, việc cùng lúc áp dụng 2 cơ chế tài chính đánh vào cùng 1 đối tượng đã và đang đặt ra những vấn đề thực tiễn, pháp lý và kinh tế đáng quan tâm.

Tổng thuế, phí (chưa bao gồm thuế TNDN) tác động đến ngành công nghiệp khai khoáng tại Việt Nam là khoảng từ 24 - 26%. Mức này cao hơn đáng kể so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Chẳng hạn, tiền cấp quyền ở Việt Nam là 4 - 5% doanh thu, trong khi Mỹ, Nhật Bản và Malaysia không thu; thuế tài nguyên ở Việt Nam là 9 - 10%, cao hơn so với Mỹ (2 - 7% lợi nhuận), Malaysia (5%) và Nhật Bản (1,2%)...

Cần một tư duy tài nguyên mới

Về phía cơ quan quản lý, ông Trần Phương - Phó Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, ngoài mục tiêu thu ngân sách, chính sách thuế và tiền cấp quyền hiện nay còn nhằm hạn chế đầu cơ mỏ khoáng sản, tránh cấp phép rồi bỏ hoang, không khai thác.

Mặc dù vậy, theo đại diện Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí thuộc Bộ Tài chính, sau một thời gian dài thực hiện chính sách thuế đối với công nghiệp khoáng sản, việc rà soát, phát hiện những vướng mắc, bất cập so với thực tiễn là cần thiết, đặc biệt là cách tính thuế, sản lượng và giá tính thuế tài nguyên.

"Khoáng sản là lĩnh vực rất đặc thù, đa dạng về chất lượng, hàm lượng, trữ lượng, nên rất khó xác định được chính xác tuyệt đối trữ lượng để tính thuế. Những DN sản xuất khoáng sản đã qua chế biến được trừ chi phí sản xuất chế biến sản phẩm công nghiệp, song thực tế gặp nhiều khó khăn trong việc xác định chính xác chi phí được trừ… Đồng thời, cần rà soát lại tổng mức thuế, phí 24 - 26%, tránh đánh đồng tất cả DN, bởi thực tế DN công nghệ cao đã được hưởng ưu đãi", đại diện Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí cho biết.

Theo đề xuất của đại diện Deloitte, Việt Nam cần chuyển từ tính tiền cấp quyền theo “trữ lượng” sang theo “diện tích được cấp phép khai thác” để đơn giản hóa; giảm mức thuế suất từng loại tài nguyên khoáng sản, đặc biệt với các loại khoáng sản chế biến sâu; bổ sung Danh mục khoáng sản đã được chế biến sâu được hoàn thuế giá trị gia tăng...

Ông Phan Chiến Thắng kiến nghị, cần đơn giản hóa thủ tục cấp phép khai thác, chế biến khoáng sản, đặc biệt là khoáng sản mang tính chiến lược, có thể áp dụng cơ chế đặc thù cho phép DN vừa đầu tư xây dựng, vừa hoàn thiện thủ tục hoàn thiện thủ tục hành chính song song, để rút ngắn thời gian, giảm chi phí cơ hội, thúc đẩy hiệu quả đầu tư.

Kết nối đầu tư