Trao đổi với báo chí ngày 22/8, bà Phan Thị Thu Hiền - Vụ trưởng Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, Bộ Tài chính sẽ thực hiện một số giải pháp, đáng chú ý là việc cho phép Bảo hiểm Xã hội (BHXH) đầu tư một phần vào các TPDN có xếp hạng tín nhiệm (XHTN) cao.
Qua gần 20 năm xây dựng, quy mô thị trường TPDN vẫn rất nhỏ so với các thị trường khác. Nguyên nhân của tình trạng này là gì, thưa bà?
Trước hết cần xem xét từ tính lịch sử của thị trường vốn và tiền tệ. Hệ thống ngân hàng đã có quá trình phát triển gần 70 năm, trong khi đó thị trường TPDN thực sự bắt đầu hình thành từ năm 2000 trở lại đây. Đa phần các doanh nghiệp (DN) chưa nhận thức rõ ràng về thị trường vốn nên khi có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh thì sẽ nghĩ ngay đến kênh tín dụng ngân hàng.
Trong khi đó, cơ chế chính sách lại chưa thực sự cân bằng giữa chính sách huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và kênh tín dụng ngân hàng. Đối với chính sách phát hành TPDN, DN phải đáp ứng điều kiện chặt chẽ và tuân thủ quy trình thủ tục theo chuẩn mực thị trường để đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư.
Về tổ chức phát hành, các DN có tâm lý e ngại khi huy động vốn trái phiếu, nhất là các DN nhỏ và vừa. Nguyên nhân là do thói quen và nhận thức của DN, cùng với quy trình, thủ tục vay vốn ngân hàng đơn giản hơn, chi phí có thể thấp hơn và đặc biệt là không phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin đối với nhà đầu tư mua trái phiếu.
Do nhà đầu tư trên thị trường TPDN chưa đa dạng, thiếu vắng các nhà đầu tư dài hạn, các nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ đầu tư mục tiêu, quỹ hưu trí, nên nhu cầu đầu tư trên thị trường thiếu bền vững.
Về hạ tầng, chưa có hệ thống thông tin tập trung về TPDN để các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận và chưa hình thành thị trường thứ cấp để tăng tính thanh khoản cho TPDN. Ngoài ra, sự thiếu vắng vai trò và hoạt động của các tổ chức XHTN đã hạn chế việc tiếp cận kênh đánh giá để ra quyết định đầu tư của các nhà đầu tư TPDN.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2014/NĐ-CP ngày 26/9/2014 quy định về dịch vụ XHTN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 507/QĐ-TTg về quy hoạch dịch vụ XHTN đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của DN XHTN tại Việt Nam.
Hiện nay đã có 1 DN Việt Nam được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ XHTN, 3 DN nước ngoài đang nghiên cứu thị trường Việt Nam và thể hiện sự quan tâm trong thời gian tới.
Tuy nhiên, việc phát triển dịch vụ XHTN phụ thuộc cả vào yếu tố cung và cầu của thị trường. DN cung cấp dịch vụ XHTN phải đáp ứng được chất lượng cung cấp dịch vụ, phải có kinh nghiệm và uy tín; DN phát hành trái phiếu phải có nhu cầu sử dụng dịch vụ. Theo lộ trình phát triển thị trường trái phiếu, thời gian tới dự kiến sẽ nghiên cứu yêu cầu TPDN phát hành ra công chúng thực hiện XHTN khi điều kiện thị trường cho phép. Nội dung này đang được nghiên cứu để quy định cùng với việc dự thảo Luật Chứng khoán. Còn đối với trái phiếu riêng lẻ, sẽ khuyến khích các DN XHTN để tăng cường công khai, minh bạch về thông tin.
Bộ Tài chính sẽ thực hiện các giải pháp gì để phát triển thị trường TPDN?
Bộ Tài chính đang phối hợp với các bộ, ngành triển khai đồng bộ một số giải pháp.
Trước hết là hoàn thiện khung pháp lý về phát hành TPDN theo hướng tách bạch phương thức phát hành ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ sửa đổi Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành TPDN, trong đó nới lỏng điều kiện phát hành để tạo thuận lợi cho DN huy động vốn trái phiếu gắn với việc tập trung vào nhà đầu tư có tổ chức, tăng cường cơ chế công bố công khai thông tin của DN phát hành để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đang nghiên cứu xây dựng Luật Chứng khoán thế hệ 2, trong đó đánh giá khả năng gắn XHTN vào phát hành TPDN ra công chúng. Đồng thời với cơ chế phát hành, sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách về đầu tư, nắm giữ TPDN đảm bảo đồng bộ, tạo sự liên thông với các cơ chế chính sách hiện hành trên thị trường tiền tệ, tín dụng.
Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu cơ chế chính sách đầu tư của BHXH để trình cấp có thẩm quyền cho phép BHXH đầu tư một phần vào các TPDN có XHTN cao.
Ngoài ra, thực hiện đồng bộ chính sách tín dụng theo hướng có lộ trình giảm tối đa tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn; hạn chế tối đa cho vay vượt quá 15% vốn chủ sở hữu của các tổ chức tín dụng đối với một khách hàng để giảm bớt rủi ro về kỳ hạn, nguồn vốn cho hệ thống ngân hàng và thúc đẩy việc huy động vốn qua phát hành TPDN.
Một giải pháp thiết yếu khác là lập chuyên trang thông tin tập trung về TPDN tại sở giao dịch chứng khoán, đồng thời với việc cải tiến cơ chế công bố thông tin về phát hành TPDN để tăng cường tính công khai, minh bạch trong quá trình huy động vốn trái phiếu.