Ảnh Internet |
Theo ông Surendra Rosha, để ASEAN có thể đạt được cân bằng phát thải, năng lượng tạo ra từ nguồn tái tạo phải tăng gần gấp 3 lần vào cuối thập kỷ này. Đưa nguồn điện sạch đó vào lưới điện có thể giúp cắt giảm mạnh mẽ lượng phát thải trước năm 2030. Theo sau đó, sự tiến bộ của công nghệ năng lượng sạch và chi phí cạnh tranh sẽ thúc đẩy giảm phát thải nhanh chóng hơn trong các ngành khó chuyển dịch như sản xuất thép hay hàng không.
Tuy nhiên, muốn đạt được tốc độ nhanh chóng đó đòi hỏi phải có sự hợp tác. Các định chế tài chính cùng các tổ chức thuộc cả khối công và tư cũng như các tổ chức xã hội đã đạt được những bước tiến nhất định trong nhiều năm gần đây trong việc hợp tác thúc đẩy thay đổi. Tăng cường hợp tác có thể giúp mở rộng quy mô năng lượng tái tạo, dẫn nguồn vốn đến các ngành thực sự cần nhất và giải quyết thách thức về than đá.
Ông Surendra Rosha cho biết, có 3 lý do để có thể lạc quan. Thứ nhất, ASEAN có tiềm năng khổng lồ về năng lượng mặt trời và điện gió. Tuy nhiên, triển khai thêm nhiều dự án tái tạo mới với công suất cao gấp nhiều lần hiện tại sẽ cần nguồn vốn không hề nhỏ. Điều đó đồng nghĩa cần điều chỉnh lại tỷ lệ đầu tư giữa nhiên liệu hóa thạch và nguồn năng lượng phát thải các-bon thấp từ 1:1 thành 3:1 để ưu tiên cho các nguồn năng lượng sạch hơn.
Số lượng cam kết cân bằng phát thải của các định chế tài chính cho thấy nguồn tiền sẵn sàng để giải quyết bài toán này. Trở ngại chủ yếu nằm ở khâu triển khai. Bên cạnh các tiêu chí phức tạp ngân hàng thương mại phải áp dụng với các thị trường mới nổi, bản thân các giao dịch đủ điều kiện tiếp cận tín dụng ngân hàng và cơ cấu hợp đồng khả thi cũng chưa thấy tại nhiều quốc gia. Các nhà làm chính sách có thể hỗ trợ tháo gỡ nút thắt này bằng cách xây dựng danh mục các dự án đủ khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy tiến độ triển khai của nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Ảnh Internet |
Thứ hai, chính sách công có thể tăng quy mô cho các giải pháp tài chính mới. Điều này đồng nghĩa có thể triển khai mở rộng tài chính hỗn hợp kết hợp nguồn vốn từ khu vực công, chẳng hạn như các ngân hàng phát triển đa phương, với nguồn vốn từ khu vực tư gồm các định chế tài chính.
"Hệ thống bơm vốn để hỗ trợ cho hướng đi này vẫn chưa thực sự hoàn thiện. Hiện tại, hợp đồng tài chính hỗn hợp vẫn chỉ được thương thảo dựa trên tính chất mỗi giao dịch. Do vậy, nội dung hợp đồng hiếm khi đồng nhất. Việc thiết lập hợp đồng mẫu trong mảng điện gió, điện mặt trời hoặc hình thái năng lượng tái tạo khác có thể tạo ra sự thống nhất và mang lại khả năng so sánh giữa các dự án nhằm giúp các ngân hàng đánh giá rủi ro", ông Surendra Rosha nhận xét.
Thứ ba, ASEAN có thể giải quyết thử thách về than đá thông qua hợp tác. Hiện tại, khoảng 450 nhà máy nhiệt điện than, có tuổi thọ hoạt động lâu năm, đang phục vụ hầu hết nhu cầu năng lượng cho Đông Nam Á. "Chúng ta cần tìm cách để cho những nhà máy này "nghỉ hưu non" và thay thế bằng năng lượng tái tạo để có thể đạt được các mục tiêu cân bằng phát thải", ông Surendra Rosha cho hay.
Ông Surendra Rosha cho rằng, các nhà làm chính sách có thể hỗ trợ các định chế tài chính tham gia vào quá trình cho nhiệt điện than "nghỉ hưu non" như một phần trong kế hoạch tổng thể xây dựng hạ tầng năng lượng tái tạo và lưới điện. Thỏa thuận Hợp tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) ở Indonesia và Việt Nam là những ví dụ đầy hứa hẹn. Những thỏa thuận tài chính đa phương như vậy kết nối các quốc gia G7 với các định chế tài chính cũng như chính phủ các nước cùng hướng tới mục tiêu tăng tốc quá trình giảm dần than đá như một phần của kế hoạch chuyển dịch năng lượng nói chung.