Tạo thuận lợi để doanh nghiệp phát triển, đất nước đi lên

(BĐT) - Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp là góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, vướng mắc ở đâu thì ở đó phải tháo gỡ, nhằm tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp phát triển. Đây là thông điệp Chính phủ nhấn mạnh và yêu cầu các cấp, ngành thực hiện trong quá trình điều hành nền kinh tế. Báo Đấu thầu xin chia sẻ một số phản ánh, góc nhìn từ doanh nghiệp, nhà thầu với mong muốn con đường phát triển sẽ ngày càng mở rộng, thực chất.

Tạo thuận lợi để doanh nghiệp phát triển, đất nước đi lên
10-1.jpg

Tinh thần “Người Việt dùng hàng Việt” cần được thực thi mạnh trong mua sắm công và trường học

Bà Trần Phương Nga, CEO Thiên Long Group

Ngành văn phòng phẩm thế giới đang tăng trưởng chậm lại do ảnh hưởng của chuyển đổi số, song nhu cầu vẫn còn lớn, đặc biệt tại các khu vực đang phát triển như Đông Nam Á, Nam Á và châu Phi, nơi số lượng học sinh, sinh viên lớn và nhu cầu học tập tăng nhanh.

Ở Việt Nam, ngành văn phòng phẩm gắn chặt với nhu cầu của 25 triệu học sinh, sinh viên. Đây là một ngành đặc biệt, vì không chỉ phục vụ tiêu dùng, mà còn gắn với giáo dục, văn hóa hiếu học và tri thức quốc gia. Hàng nhập khẩu giá rẻ, đa dạng mẫu mã từ Trung Quốc và sản phẩm cao cấp từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức đang tạo sức ép cạnh tranh mạnh mẽ lên sản phẩm trong nước.

Ngành văn phòng phẩm Việt Nam hiện đối diện với một số vấn đề. Một là phân mảnh thị trường. Hai là đổi mới sáng tạo hạn chế; sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm xanh còn ít, chủ yếu ở giai đoạn thử nghiệm. Ba là phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu, dễ bị tác động bởi biến động giá. Bốn là thiếu định vị xây dựng hình ảnh quốc gia cho toàn ngành văn phòng phẩm. Năm là xu hướng tiêu dùng thay đổi nhanh. Bên cạnh đó, hợp tác nghiên cứu và phát triển (R&D) với các viện, trường còn hình thức, nhiều doanh nghiệp phải tự xoay xở khi phát triển sản phẩm mới như bút thông minh hay học cụ STEAM. Tinh thần “Người Việt dùng hàng Việt” chưa được thực thi mạnh trong mua sắm công và trường học. Tôi mong thực tế này sẽ sớm thay đổi.

Để tạo chuỗi giá trị văn phòng phẩm xanh, theo tôi, doanh nghiệp - Nhà nước - viện nghiên cứu cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa để phát triển vật liệu xanh như: nhựa sinh học, nhựa tái chế, giấy tái chế. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản phẩm tuần hoàn (refill), kéo dài vòng đời, giảm rác thải. Cần có chiến lược quốc gia cho ngành văn phòng phẩm - giáo dục. Đặc biệt, Nhà nước cần đưa sản phẩm xanh vào danh mục mua sắm công và trường học, tạo sức cầu bền vững…

10-2.jpg

Có thêm các gói tín dụng ưu đãi, DN sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất, kinh doanh

Ông Nguyễn Thanh Duy, Tổng giám đốc HD Group, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh An Giang

Công điện số 179/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển thị trường trong nước là một chỉ đạo kịp thời, toàn diện, góp phần quan trọng trong việc kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất, phấn đấu cho mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm nay.

Để kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất, chính sách tài chính, tín dụng đi kèm là rất quan trọng. Trong Công điện số 179, người đứng đầu Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng rút ngắn thủ tục vay, cung cấp gói tín dụng cho sản xuất và tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp rất chờ đợi việc này. Nếu có thêm các gói tín dụng ưu đãi và quy trình vay thuận lợi hơn, doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất, đa dạng hóa nguồn cung, phát triển hệ thống phân phối, bảo đảm duy trì cung ứng hàng hóa cho thị trường liên tục, ổn định, qua đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh. Chúng tôi kỳ vọng việc thực hiện Công điện trên sẽ tạo động lực giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư, khai thác tốt tiềm năng của thị trường hơn 100 triệu dân.

Dưới góc độ là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, tôi cho rằng, bên cạnh các nỗ lực xúc tiến thương mại, bản thân doanh nghiệp cần đẩy mạnh liên kết chuỗi, tăng chất lượng sản phẩm và bảo chứng hàng Việt. Cùng với đó cần nâng cao tính minh bạch trong môi trường thương mại điện tử, công khai xuất xứ, chỉ dẫn địa lý để xây dựng niềm tin với người tiêu dùng.

10-3.jpg

Với chúng tôi, thành công không chỉ dừng ở việc trúng thầu…

Ông Lê Tấn Phước, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Searefico

Trong bối cảnh số hóa, thông tin bùng nổ, có khi trái chiều và khó đối chiếu, là lãnh đạo một doanh nghiệp, tôi xem sự tử tế như một kỷ luật vận hành có thể đo được. Đó là chuẩn mực quản trị thể hiện qua cách nói đúng sự thật, thực hiện đúng cam kết và sẵn sàng giải trình trước các cổ đông, khách hàng, người lao động và cộng đồng. Tử tế không dừng ở khẩu hiệu, đó là cách một doanh nghiệp tự đặt ra giới hạn hành xử, để dữ liệu trả lời thay cho suy diễn.

Với chúng tôi, thành công không chỉ dừng ở việc trúng thầu, mà phải là cả quá trình liêm chính, cam kết và tử tế giữa chủ đầu tư với nhà thầu. Tôn chỉ “Sống tử tế, làm đàng hoàng, để lại di sản” là cam kết dài hạn của Searefico. Sống tử tế để xây dựng niềm tin với khách hàng, đối tác và xã hội; làm đàng hoàng để biến mọi cam kết thành thực tế, từ tiến độ, chất lượng đến tài chính; để lại di sản để thế hệ sau nhìn vào Searefico không chỉ thấy công trình, mà còn thấy một văn hóa doanh nghiệp liêm chính và có trách nhiệm.

Sự tử tế đối với tôi là không đánh đổi uy tín lấy lợi ích ngắn hạn, không đẩy rủi ro sang tương lai, không để khoảng trống thông tin làm yếu đi niềm tin. Một tổ chức bền vững cần dũng khí nhìn thẳng vào sự thật, nghiêm túc sửa sai khi cần, kiên định khi đã chọn đúng hướng.

10-4.jpg

Chính sách cần hướng đến mục tiêu định giá minh bạch tài sản, xây dựng niềm tin thị trường

Ông Võ Hoàng Ẩn, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Hãng Định giá và Kiểm toán Châu Á

Thị trường bất động sản Việt Nam nhiều năm qua có tình trạng thông tin phân tán, thiếu đồng bộ, dữ liệu về giá nhà, nguồn cung, giao dịch, quy hoạch nằm rải rác ở các địa phương. Thực tế này gây khó khăn cho công tác quản lý cũng như cho hoạt động xác định giá bất động sản trong giao dịch kinh tế. Để cải thiện tình trạng trên, cơ quan chức năng đang xây dựng Hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản. Về phía doanh nghiệp, chúng tôi cũng góp sức bằng việc tiên phong xây dựng bản đồ giá bất động sản toàn quốc tại địa chỉ https://dinhgiaav.com/map/. Hệ thống của chúng tôi tích hợp GIS, số hóa, AI và dữ liệu đa lớp: giá nhà nước quy định, giá rao bán, giá thẩm định, cùng dữ liệu tự động crawl từ Internet. Hệ thống là kênh tham khảo, đồng thời là bước chuẩn bị cho quá trình số hóa tài sản và bất động sản trong tương lai, phù hợp với định hướng của Nhà nước.

Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thẩm định giá và kiểm toán, chuyên cung cấp dịch vụ cho các chủ thể có nhu cầu chứng minh tài chính, phát mãi tài sản, bồi thường giải phóng mặt bằng, tham gia đấu thầu…, chúng tôi nhận thấy, định giá minh bạch chính là nền tảng xây dựng niềm tin cho các bên, bởi khi giá trị tài sản được phản ánh đúng, mọi giao dịch sẽ trở nên công bằng và hiệu quả hơn. Theo đó, bên cạnh nỗ lực minh bạch thông tin, giá cả trên thị trường bất động sản, chúng tôi mong, Luật Giá và các văn bản dưới luật tới đây sẽ hướng dẫn chi tiết về cách lựa chọn các tài sản so sánh khi định giá, quy trình lập hồ sơ, lưu trữ chứng cứ; đồng thời quy định rạch ròi giữa trách nhiệm chuyên môn và trách nhiệm hình sự. Chúng tôi cũng mong sớm có cơ chế bảo hiểm nghề nghiệp để bảo vệ thẩm định viên độc lập, tạo môi trường hành nghề minh bạch, chuyên nghiệp và bền vững cho những người làm công việc này.

10-5.jpg

Đề xuất 4 giải pháp đột phá để bảo đảm an ninh năng lượng

Ông Bùi Văn Thịnh, Chủ tịch Hiệp hội Điện gió Bình Thuận, Tổng giám đốc Công ty CP Phong điện Thuận Bình

Vừa qua, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng. Theo đó, nghị quyết xác định, đến 2030, tổng công suất điện đạt 183 - 236 GW, tỷ lệ năng lượng tái tạo 25 - 30%, giảm phát thải 15 - 35%, hệ thống điện thông minh và đáng tin cậy.

Theo tôi, trong “Kỷ nguyên vươn mình”, yêu cầu cung ứng điện không chỉ đủ về công suất mà còn chất lượng cao, sạch. Để đạt mục tiêu đến năm 2030, tổng công suất điện đạt 183 - 236 GW, mỗi năm Việt Nam phải bổ sung vào hệ thống thêm 20 - 30 nghìn MW. Với tốc độ phát triển hiện nay, mục tiêu vừa nêu là rất thách thức.

Tôi cho rằng có 3 yếu tố khiến tốc độ đầu tư phát triển nguồn điện chưa đạt kỳ vọng. Một là, quy định pháp luật chồng chéo, ranh giới giữa đúng và sai rất mong manh làm các nhà đầu tư bất an, nhất là nhà đầu tư nước ngoài. Hai là, các chính sách chưa đủ độ dài để hấp dẫn đầu tư, điển hình là chính sách phát triển điện gió và điện mặt trời vừa qua. Ba là, giá điện chưa hợp lý, chưa hài hòa lợi ích của các bên tham gia.

Đối với nhà đầu tư lĩnh vực điện năng nói chung, năng lượng tái tạo nói riêng, nỗi lo hiện nay không phải là thiếu năng lực, kinh nghiệm mà là hiệu quả dự án đầu tư. Để giải bài toán này, theo tôi cần 4 giải pháp mang tính đột phá. Một là, với các quy định pháp luật chồng chéo, cho phép doanh nghiệp được quyền lựa chọn áp dụng quy định phù hợp nhất tại thời điểm thực hiện đầu tư. Hai là, có thể kéo dài cơ chế giá FIT thêm 3 - 5 năm để năng lượng tái tạo đạt mục tiêu tại Quy hoạch điện VIII; giá FIT áp dụng khác nhau theo vùng để định hướng đầu tư, tránh tập trung quá nhiều vào 1 khu vực. Ba là, cần đưa ra mức phí truyền tải phù hợp và có chính sách cho tư nhân tham gia đầu tư lưới điện truyền tải và cho thuê thu phí. Bốn là, giá điện cần hợp lý hơn để bảo đảm cân bằng lợi ích các bên và làm thị trường minh bạch hơn.

10-6.jpg

Cần tổ chức cơ chế đối thoại thường xuyên giữa chính quyền và doanh nghiệp

Ông Nguyễn Phạm Hữu Hậu, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Bất động sản Trần Anh

Tập đoàn Bất động sản Trần Anh là một trong những đơn vị đầu tư và kinh doanh bất động sản hàng đầu tại tỉnh Long An (cũ). Những tháng đầu năm 2025, mặc dù thị trường bất động sản còn nhiều khó khăn, nhưng Trần Anh vẫn không ngừng hoàn thiện sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo ra những giá trị bền vững cho cộng đồng.

Tuy nhiên, sau khi các tỉnh, thành phố sáp nhập và triển khai mô hình chính quyền 2 cấp, hoạt động của doanh nghiệp bất động sản phát sinh một số vướng mắc. Thay đổi về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính liên quan đến đất đai khiến nhiều doanh lúng túng trong quá trình triển khai dự án. Đặc biệt, việc xác định nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ thuế khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất hiện nay còn nhiều bất cập, thiếu sự thống nhất giữa các đơn vị thực thi. Điều này dẫn đến chậm tiến độ triển khai, gia tăng chi phí và làm giảm hiệu quả đầu tư.

Từ thực tiễn đó, chúng tôi kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước sớm ban hành hướng dẫn thống nhất, minh bạch hơn về các thủ tục sau sáp nhập, đặc biệt là quy trình liên quan đến đất đai và tài chính. Bên cạnh đó, cần tổ chức cơ chế đối thoại thường xuyên giữa chính quyền và doanh nghiệp nhằm giải quyết nhanh chóng những khó khăn phát sinh. Một số quy định về định giá đất, bồi thường - giải phóng mặt bằng cũng nên được sửa đổi, cập nhật sát với thực tế thị trường để giúp doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch đầu tư.

Ngoài ra, tôi mong muốn có thêm chính sách tín dụng ưu đãi, giúp doanh nghiệp giảm áp lực tài chính trong giai đoạn thị trường khó khăn. Đây sẽ là “đòn bẩy” quan trọng giúp doanh nghiệp tập trung nguồn lực phát triển dự án chất lượng, giá bán hợp lý, qua đó đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân về chỗ ở và góp phần thúc đẩy phát triển đô thị tại địa phương.

10-7.jpg

Nghị quyết 68-NQ/TW đề cập việc hỗ trợ 2% lãi suất đối với doanh nghiệp chuyển đổi xanh, nhưng việc tiếp cận còn khó

TS. Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân

Chuyển đổi xanh cần sự tham gia của Nhà nước, thị trường và các tác nhân khác như doanh nghiệp, người dân. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng thông qua việc ban hành thể chế và chính sách hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho chuyển đổi xanh.

Về mặt chính sách, hiện tại có nhiều chính sách liên quan đến chuyển đổi xanh như tín dụng xanh, danh mục xanh. Hy vọng những chính sách này sẽ thúc đẩy tín dụng xanh trong tổng tín dụng, hiện chỉ chiếm khoảng 4,5%. Bởi lẽ, chuyển đổi xanh đòi hỏi nhiều nguồn lực tài chính dài hạn, thậm chí cần vốn mồi từ Nhà nước cho doanh nghiệp. Vấn đề quan trọng hiện nay không phải là đặt ra mục tiêu hay ban hành chính sách, mà là thực thi chính sách sao cho hiệu quả.

Ví dụ, Nghị quyết 68-NQ/TW đề cập đến việc hỗ trợ 2% lãi suất đối với doanh nghiệp thực hành ESG hoặc liên quan đến chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp chia sẻ rằng, chính sách đã có nhưng việc tiếp cận lại rất khó, đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn và chưa có thông tin rõ ràng. Điều này cho thấy việc triển khai còn rất chậm chạp.

Mặt khác, nhìn ở góc độ chính sách, cần nhấn mạnh rằng chuyển đổi xanh là một hệ sinh thái chính sách. Ví dụ, Trung Quốc có chính sách '1+N', trong đó phân chia các mục tiêu chuyển đổi xanh cho từng ngành kinh tế và từng địa phương cụ thể. Trong khi đó, việc chia bài toán quốc gia cho từng địa phương, từng ngành nghề ở Việt Nam còn yếu. Việt Nam mới chỉ có các chính sách đơn lẻ, chưa tạo thành một hệ sinh thái chính sách đồng bộ.

Kết nối đầu tư