Đến thời điểm cuối năm 2023, SAWACO đang thực hiện 36 dự án hạ tầng cấp nước, trong đó có một số dự án đầu tư mạng cấp 1 trọng điểm |
Cạnh tranh, công bằng và minh bạch trong hoạt động đấu thầu
Năm 2023, SAWACO tổ chức lựa chọn nhà thầu qua mạng 336/336 gói thầu áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chào hàng cạnh tranh, trừ gói thầu hỗn hợp, gói thầu áp dụng phương thức 2 giai đoạn 1 túi hồ sơ, 2 giai đoạn 2 túi hồ sơ, đạt 100% số lượng gói thầu và 100% tổng giá trị gói thầu theo lộ trình đấu thầu qua mạng năm 2023 quy định tại Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT.
Về quy trình thẩm định dự án mua sắm tài sản, hàng hóa nói chung, SAWACO căn cứ theo Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013; Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 về Quy định chi tiết một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu; các thông tư hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) và Quyết định số 1704/QĐ-TCT-KHĐT ngày 10/11/2021 (Quyết định số 1704) về việc ban hành Quy định mua sắm tài sản, hàng hóa, dịch vụ và lựa chọn nhà thầu trong mua sắm tại Công ty mẹ - Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn TNHH MTV.
Trên cơ sở đó, Phòng Kế hoạch Đầu tư thuộc Tổng công ty xem xét thẩm tra, thẩm định dự án mua sắm, thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu (LCNT). Đối với dự án mua sắm, đơn vị quản lý dự án trực thuộc SAWACO lập tờ trình và đính kèm bộ hồ sơ theo quy định, trong đó bao gồm: Tập dự án và dự toán do đơn vị lập hoặc đơn vị tư vấn lập; văn bản về yêu cầu kỹ thuật, quy mô về số lượng, khối lượng; tên dự án, hạng mục trình duyệt đã được ghi kế hoạch vốn của năm... Đối với gói thầu, kế hoạch LCNT sau khi phê duyệt được đăng tải trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia; hồ sơ mời thầu (HSMT) do đơn vị quản lý dự án lập theo mẫu các Thông tư của Bộ KH&ĐT ban hành. Việc thẩm định và phê duyệt HSMT theo Điều 13 Luật Đấu thầu, báo cáo thẩm định căn cứ theo Thông tư số 19/2015/TT-BKHĐT ngày 27/11/2015 của Bộ KH&ĐT. Sau đó, đơn vị quản lý dự án thuộc SAWACO thực hiện việc tổ chức LCNT theo hình thức đấu thầu rộng rãi, đăng tải thông báo mời thầu công khai trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
Đối với công tác đấu thấu rộng rãi qua mạng, các thông tin liên quan HSMT, hồ sơ thiết kế công trình… đều được đăng tải công khai, minh bạch trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
Nỗ lực triển khai các dự án cấp nước trọng điểm
Đến thời điểm cuối năm 2023, SAWACO đang thực hiện 36 dự án hạ tầng cấp nước (các dự án nhóm B), trong đó có một số các dự án đầu tư mạng cấp 1 trọng điểm: Lắp đặt tuyến ống cấp 1 đường Ung Văn Khiêm - Nguyễn Xí (từ đường Điện Biên Phủ đến đường Kha Vạn Cân); Lắp đặt tuyến ống cấp 1 đường Vành đai 2 - giai đoạn 1 (đoạn từ đường Liên Tỉnh Lộ 25B đến cầu Phú Hữu), TP. Thủ Đức; Lắp đặt tuyến ống cấp 1 đường Vành đai 2 - giai đoạn 2 (đoạn từ cầu Phú Hữu đến Xa lộ Hà Nội), TP. Thủ Đức; Lắp đặt tuyến ống cấp 1 đường Vành đai 3 (từ Xa lộ Hà Nội đến cuối tuyến đường nối vào Vành đai 3); Lắp đặt tuyến ống cấp 1 tuyến đường Võ Văn Kiệt - Mai Chí Thọ - Nguyễn Duy Trinh (từ Hồ Học Lãm đến Vành đai 2); Lắp đặt tuyến ống cấp nguồn cho Khu đô thị Thủ Thiêm, TP. Thủ Đức; Xây dựng tuyến ống nước thô D2400 từ trạm bơm Hóa An về Nhà máy Nước Thủ Đức; Lắp đặt tuyến ống dự phòng cho tuyến ống nước sạch D1500 Bình Thái - Bình Lợi; Lắp đặt tuyến ống cấp 1 đường Vành đai 2 (từ Tỉnh lộ 25B đến cầu Phú Mỹ) Quận 2, Quận 7…
Trong quá trình thực hiện các dự án cấp nước trọng điểm, nhiều khó khăn vướng mắc, trở ngại còn tồn đọng. Trong đó có việc tư vấn thiết kế chưa lường trước hoặc cập nhật chưa hết, chưa chính xác các công trình ngầm trên tuyến. Các công trình ngầm thực tế ngoài hiện trường có sự khác biệt hoặc chưa đúng với số liệu cung cấp, dẫn đến việc xử lý giao cắt mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó là khó khăn trong quá trình xin phép đào đường, thỏa thuận hướng tuyến và chờ phối hợp thi công với các công trình hạ tầng khác. Việc thỏa thuận hướng tuyến còn chậm do phải lấy ý kiến của các đơn vị liên quan về hướng tuyến, một số đơn vị chậm (hoặc không trả lời) dẫn đến chậm bổ túc hoàn chỉnh hồ sơ. Một số dự án bị vướng mặt bằng chưa giải tỏa đền bù hay mặt bằng bị chồng chéo giữa các đơn vị quản lý…
SAWACO đã có nhiều văn bản gửi tới các cơ quan chức năng và các cấp có thẩm quyền để đề xuất, kiến nghị, phối hợp tìm giải pháp tháo gỡ những vướng mắc trên.
Dù khó khăn, thách thức còn rất nhiều, Ban lãnh đạo SAWACO vẫn quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn thể cán bộ công nhân viên tăng tốc thực hiện hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Năm 2024, các nhiệm vụ, yêu cầu trọng tâm đặt ra đối với ngành cấp nước TP.HCM là: bảo đảm hoạt động cung cấp nước liên tục, an toàn cho nhân dân Thành phố; tiếp tục triển khai thực hiện Đề án Phát triển hệ thống cấp nước TP.HCM giai đoạn 2020 - 2050 và Chương trình Cung cấp nước sạch và chấm dứt khai thác nước ngầm Thành phố giai đoạn 2020 - 2030; thực hiện Chương trình Nâng cao chất lượng nước sạch - tiến tới cung cấp nước uống trực tiếp tại vòi tại những khu vực ưu tiên trên hệ thống cấp nước của SAWACO giai đoạn 2021 - 2025… Với vai trò là đơn vị cung cấp nước sạch an toàn cho hơn 10 triệu dân tại TP.HCM, SAWACO không ngừng phấn đấu nỗ lực, tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch cấp nước theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp nhằm tiến đến mục tiêu xuyên suốt của ngành nước Thành phố là bảo đảm cấp nước an toàn, liên tục, đáp ứng đủ nhu cầu nước, tiến tới chất lượng nước uống trực tiếp tại vòi sau năm 2025.
Hiện nay, tổng công suất thiết kế các nhà máy nước thuộc SAWACO là 2,4 triệu m3/ngày đêm; tỷ lệ nước thất thoát, thất thu bình quân năm 2023 đạt 13,05%, giảm 4,85% so kế hoạch năm 2023 và giảm 5,19% so bình quân năm 2022. Nếu tính theo tỷ lệ thất thoát nước bình quân theo ngày là 14,39% (giảm 3,51% so với kế hoạch). Tổng số đấu nối khách hàng đạt 1,6 triệu đấu nối, cung cấp nước sạch cho 100% hộ dân sinh sống và làm việc trên địa bàn Thành phố. Tổng chiều dài mạng lưới truyền tải và phân phối nước sạch của SAWACO tính tới năm 2023 là gần 11.000 km. Năm 2023, tổng sản lượng nước sản xuất đạt 693.388.906 m3, bằng 96,55% so kế hoạch năm 2023 và bằng 98,72% so cùng kỳ năm 2022; công suất phát nước bình quân năm 2023 đạt 1.899.376 m3/ngày, bằng 96,53% so với công suất kế hoạch năm 2023 và bằng 98,70% so cùng kỳ năm 2022…