Về quy định đối với thẻ phát hành cho khách hàng tổ chức, Thông tư số 45 sửa đổi, bổ sung theo hướng khách hàng là tổ chức phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân sử dụng thẻ của tổ chức đó; cá nhân được tổ chức ủy quyền sử dụng thẻ được gọi là chủ thẻ phụ.
Về thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán, Thông tư sửa đổi, bổ sung theo hướng thiết bị chấp nhận thẻ có thể được lắp đặt tại chi nhánh, phòng giao dịch, điểm đại lý thanh toán của tổ chức thanh toán thẻ để cung ứng tiền mặt cho chủ thẻ.
Về trình tự, thủ tục phát hành thẻ, Thông tư bổ sung yêu cầu tổ chức phát hành thẻ phải gặp mặt trực tiếp và đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của chủ thẻ đối với khách hàng cá nhân, người đại diện hợp pháp đối với khách hàng tổ chức, trong đó bổ sung thêm một số trường hợp loại trừ đối với khách hàng tổ chức; và bổ sung việc kiểm tra, đảm bảo thông tin về số điện thoại của chủ thẻ (đối với khách hàng cá nhân), người đại diện hợp pháp (đối với khách hàng tổ chức) là chính chủ đối với trường hợp khách hàng đăng ký giao dịch trên phần mềm ứng dụng cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành ngân hàng.
Về hạn mức giao dịch đối với thẻ tín dụng, tổng hạn mức rút tiền mặt đối với chủ thẻ tính theo BIN của thẻ tín dụng tối đa được giữ ở mức 100 triệu đồng trong 1 tháng.
Về đối tượng sử dụng thẻ đối với người nước ngoài, Thông tư sửa đổi, bổ sung theo hướng không yêu cầu khách hàng cá nhân là người nước ngoài “có thời hạn cư trú tại Việt Nam từ 12 tháng (360 ngày) trở lên kể từ thời điểm đề nghị phát hành thẻ”; mà quy định thời hạn sử dụng thẻ không vượt quá thời hạn được phép cư trú còn lại tại Việt Nam.
Ngoài ra, Thông tư sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác như phạm vi sử dụng của thẻ tín dụng; quy định cụ thể về các trường hợp được thực hiện giao dịch thẻ mà không yêu cầu thực hiện đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của chủ thẻ đối với khách hàng cá nhân và người đại diện hợp pháp đối với khách hàng tổ chức...