Hình ảnh từ hai vụ thử bom hạt nhân được Mỹ giải mật
Chất lượng vũ khí hạt nhân là yếu tố rất khó xác định. Uy lực của chúng được đo bằng áp lực vụ nổ nhìn thấy bằng mắt thường và nhiệt năng tỏa ra, nhưng cũng có thể là những thứ mắt thường không thể quan sát như xung điện từ và bức xạ hủy diệt.
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1992, Mỹ đã tiến hành 1.032 vụ thử hạt nhân để tìm cách đánh giá loại vũ khí hủy diệt này. Rất nhiều vụ thử được nhìn nhận là không cần thiết, quá nguy hiểm và kỳ quặc, nhưng chúng vẫn giúp Mỹ có thêm thông tin về vũ khí hạt nhân, với cái giá phải trả là hàng loạt vết lồi lõm trên mặt đất và vấn đề sức khỏe lâu dài của người dân, theo National Interest.
Theo chuyên gia quân sự Kyle Mizokami, phần lớn các vụ thử hạt nhân của Mỹ diễn ra ở giữa sa mạc phía tây trong bãi thử Nevada, với 699 lần thử thiết bị hạt nhân cả trên mặt đất và dưới lòng đất. Đương lượng nổ trung bình của các vụ thử là 8,6 kiloton, tương đương 8.600 tấn TNT kích nổ cùng lúc. Các vụ thử trên khí quyển có thể quan sát từ Las Vegas, cách bãi thử 8 km về hướng đông nam.
Những vụ thử còn lại diễn ra trên quần đảo Bikini, Enewetak, Johnson và Christmas ở Thái Bình Dương. Các vụ thử hạt nhân này khiến cư dân bản địa phải chuyển đi nơi khác sinh sống, còn những người sống gần nơi thử bị phơi nhiễm bụi phóng xạ ở mức nguy hiểm, buộc phải sơ tán.
Vụ thử bom nhiệt hạch đầu tiên của Mỹ diễn ra vào tháng 10/1952 ở đảo Enewetak. Với mật danh Ivy Mike, thiết bị nổ hạt nhân nặng 82 tấn trông giống một tòa nhà hơn là một quả bom thực sự. Thiết bị này có sức công phá 10,4 megaton, tương đương 10,4 triệu tấn thuốc nổ TNT, mạnh gấp gần 700 lần quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Hiroshima. Ivy Mike là vụ thử lớn nhất cho đến khi đó, tạo ra quả cầu lửa rộng gần 2,9 km và đám mây hình nấm cao hơn 41 km.
Năm 1954, thủy thủ trên tàu đánh cá Daigo Fukuryu Maru của Nhật Bản tình cờ đi qua đám mây bụi phóng xạ phát ra từ vụ thử mang mật danh Castle Bravo có sức công phá 15 megaton, tương đương 15 triệu tấn TNT. Một người tử vong, số còn lại bị nôn do nhiễm phóng xạ.
Một trong trong những vụ thử hạt nhân kỳ lạ nhất diễn ra năm 1962 ở bãi thử Nevada. Quân đội Mỹ khi đó thử nghiệm pháo chiến trường bắn đầu đạn hạt nhân mang tên Davy Crockett với sức mạnh tương đương10-20 tấn thuốc nổ TNT. Vụ bắn thử có mật danh Little Feller diễn ra ngày 17/7/1962 trước sự chứng kiến của bộ trưởng tư pháp và cố vấn tổng thống Robert F. Kennedy.
Một vụ thử bom hạt nhân của Mỹ trên biển. Ảnh:National Interest.
Cũng trong năm 1962, Mỹ thử nghiệm một loạt các vũ khí hạt nhân trên không, trong đó rocket Thor mang đầu đạn nhiệt hạch W49 ở độ cao gần 402 km, ngoài bầu khí quyển.
Vụ thử Starfish Prime trong năm đó tạo sức công phá tương đương 1,4 triệu tấn TNT và lượng lớn xung điện từ lan tỏa phía đông Thái Bình Dương. Sóng điện từ lan tới cách đó hơn 1.287 km, làm 300 đèn cao áp và một tổng đài điện thoại bị ngắt, cũng như kích hoạt chuông chống trộm và khiến cửa garage nhà dân tự mở.
Các vụ thử hạt nhân không chỉ giới hạn ở Thái Bình Dương và bang Nevada. Tháng 10/1964, trong chiến dịch Whetstone, chính phủ Mỹ kích nổ thiết bị hạt nhân có sức công phá 5,3 kiloton chỉ cách tây nam Hattieburg, bang Mississippi khoảng 45 km. Mục đích của vụ nổ nhằm xác định liệu các vụ thử hạt nhân có thể đo bằng máy đo địa chấn hay không.
Năm 1967, Mỹ kích nổ đầu đạn có sức công phá 29 kiloton ở độ sâu hơn 1,2 km gần Farmington, bang New Mexico trong khuôn khổ dự án Gasbuggy nhằm phục vụ tham vọng khai thác khí đốt trong lòng đất bằng bom hạt nhân. Chính phủ Mỹ muốn nghiên cứu xem vụ nổ có gây rạn nứt lớp đá xung quanh và để lộ các mỏ khí đốt hay không.
Vụ thử này thất bại, nhưng Mỹ tiếp tục thử nghiệm thêm hai lần nữa gần bang Colorado với mật danh Rulison và Rio Blanco. Vụ thử Rulison thành công khi làm phát lộ một mỏ khí đốt lớn, nhưng chúng bị nhiễm phóng xạ nặng đến mức không phù hợp cho mục đích thương mại.
Mỹ còn vài lần thử bom hạt nhân ở Alaska, cụ thể là đảo Aleutian của Amchitka. Vụ nổ đầu tiên có sức công phá 80 kiloton diễn ra trong tháng 10/1965 để kiểm tra kỹ thuật phát hiện thử hạt nhân. Vụ thử thứ hai diễn ra sau đó 4 năm, có sức công phá 1 megaton, trong khi vụ thứ ba được xem là lớn nhất sử dụng đầu đạn chống tên lửa đạn đạo Spartan có sức công phá 5 megaton.
Trong lần thử Big Shot năm 1952, 1.700 lính Mỹ trú ẩn trong chiến hào chỉ cách 6,4 km từ tâm vụ nổ hạt nhân có sức mạnh gấp đôi quả bom ném xuống Hiroshima. Sau vụ thử, các binh sĩ tiến hành cuộc tấn công giả định, áp sát trong phạm vi 160 m ở khu vực trống trải. Kết quả cho thấy số lượng người tham gia thử nghiệm bị bệnh bạch cầu, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư mũi gia tăng.
Những hố bom còn sót lại ở sa mạc Nevada. Ảnh:CTBTO.
Mỹ chấm dứt các vụ thử hạt nhân vào năm 1992. Tới năm 2002, Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh ước tính hầu hết người dân Mỹ sống từ năm 1951 đều bị phơi nhiễm bụi phóng xạ, hiệu ứng cộng dồn từ tất cả vụ thử hạt nhân của các quốc gia có thể dẫn đến cái chết của 11.000 người chỉ riêng ở Mỹ.
Trên thực tế, Mỹ đã rút ra được nhiều cách chế tạo vũ khí hạt nhân tin cậy và an toàn, cũng như tác động của chúng tới đời sống con người và môi trường. Tuy nhiên, để có được những kinh nghiệm này, họ đã phải trả giá khủng khiếp, chuyên gia Mizokami nhận định.