Nhiều thách thức mới trong phát triển kinh tế chia sẻ

0:00 / 0:00
0:00

(BĐT) - Trong tương lai, kinh tế chia sẻ (KTCS) ở Việt Nam không dừng ở 3 lĩnh vực lớn (giao thông, du lịch, ngân hàng) mà còn tiếp tục mở rộng, tạo cơ hội cho người dân, doanh nghiệp (DN) cũng như nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, thực tế phát triển mô hình này thời gian qua nảy sinh nhiều thách thức mới đòi hỏi cần sớm được giải quyết.

Mô hình kinh tế chia sẻ đã huy động phương tiện, tài sản nhàn rỗi vào sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho phát triển. Ảnh: St
Mô hình kinh tế chia sẻ đã huy động phương tiện, tài sản nhàn rỗi vào sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho phát triển. Ảnh: St

Huy động nguồn lực, góp phần hoàn thiện thể chế

Theo ông Lưu Đức Khải, Phó Trưởng ban Các vấn đề xã hội thuộc Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), KTCS có thể coi là một phương thức mới trong huy động, phân bổ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phát triển kinh tế. Thời gian qua, mô hình KTCS đã huy động phương tiện, tài sản nhàn rỗi vào sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho phát triển.

“Trong lĩnh vực vận tải ở Việt Nam, với sự phát triển của loại hình dịch vụ vận tải trực tuyến như: Grab, Uber… đã huy động được một lượng khá lớn lao động, ô tô, xe máy của cá nhân, đơn vị kinh doanh tham gia vào cung cấp dịch vụ vận tải”, ông Khải đánh giá.

Báo cáo của Bộ Giao thông vận tải cho thấy, trong 2 năm (2016 - 2018) thực hiện Đề án thí điểm “Triển khai ứng dụng khoa học công nghệ hỗ trợ quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành khách theo hợp đồng” (Grab car), cả nước đã có 866 đơn vị vận tải với 36.809 phương tiện và hàng chục ngàn lao động tham gia thí điểm.

Trong lĩnh vực lưu trú du lịch, Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của một số loại hình KTCS tới nền kinh tế được CIEM đưa ra cho thấy, đến tháng 1/2019, có khoảng 18.230 cơ sở lưu trú tham gia mô hình Airbnb ở Việt Nam và còn nhiều cơ sở kinh doanh chia sẻ phòng ở, phòng làm việc đăng ký ở các ứng dụng khác.

Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, loại hình fintech đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của các công ty, DN công nghệ lớn tại Việt Nam như FPT, Viettel, VNPT… qua các hoạt động trực tiếp và gián tiếp như đầu tư hình thành các công ty fintech, thành lập các quỹ đầu tư, vườn ươm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp fintech…

Bên cạnh đó, KTCS còn thúc đẩy hoạt động kinh doanh, mở rộng và phát triển thị trường, qua đó làm tăng cạnh tranh và tính minh bạch của thị trường, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Đặc biệt, KTCS tạo ra nhu cầu và áp lực đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong xây dựng, bổ sung hoàn thiện môi trường thể chế thúc đẩy mô hình KTCS phát triển.

Nhưng không ít thách thức

Bên cạnh những tác động tích cực, quá trình phát triển KTCS cũng đặt ra không ít thách thức. Chẳng hạn, một số mô hình KTCS có nguy cơ bị các tập đoàn nước ngoài thâu tóm và “lũng đoạn”. Theo CIEM, hiện đang có xu hướng các tập đoàn lớn của nước ngoài với ưu thế về vốn và công nghệ đẩy mạnh mua lại cổ phần chi phối tại các công ty thuộc loại hình KTCS ở Việt Nam. Thậm chí các tập đoàn nước ngoài chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn để chiếm lĩnh thị trường Việt Nam.

“Trên thực tế, Grabcar, Uber, Fastgo… đã đầu tư mở thị trường và phát triển mạng lưới chi phối thị trường dịch vụ vận tải trực tuyến Việt Nam. Tương tự, lĩnh vực dịch vụ chia sẻ phòng ở cũng chủ yếu do Airbnb, Expedia… chi phối”, CIEM chỉ ra. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, thị trường dịch vụ P2P lending đang chủ yếu do các nhà đầu tư có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nga, Indonesia, Singapore… chi phối.

Với quan điểm khuyến khích phát triển, giảm thiểu tối đa thách thức, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất 13 nhóm giải pháp thúc đẩy mô hình KTCS. Các nhóm giải pháp này là: hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý KTCS, quy định rõ trách nhiệm các bên trong KTCS, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý KTCS; nghiên cứu rà soát các quy đinh pháp luật hiện hành về đầu tư liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài hoặc có nguồn gốc từ nước ngoài là bên cung cấp nền tảng kết nối và hoạt động theo mô hình KTCS ở Việt Nam để xác định lỗ hổng pháp lý và bổ sung (nếu cần thiết)…

Ông Nguyễn Xuân Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Vận tải thuộc Bộ Giao thông vận tải cho rằng, để phát triển KTCS, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thị trường lao động liên quan đến phát triển từng loại hình KTCS; hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến quan hệ lao động cả trên phương diện kỹ thuật, lập pháp cũng như trong khâu tổ chức thực hiện.

Để giảm thiểu các rủi ro phát sinh từ những biến tướng khó lường, khó dự đoán và kiểm soát trong quá trình phát triển KTCS, ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước khuyến nghị, cần có những đánh giá thêm những tác động tiêu cực của mô hình KTCS để có những giải pháp hiệu quả.

Chuyên đề