|
| Chính sách miễn, giảm, giãn thuế, phí, tiền thuê đất trong giai đoạn 2020 - 2025 góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh và vượt qua thời kỳ khó khăn. Ảnh: Quốc Ân |
Trong 5 năm, từ 2020 - 2025, Bộ Tài chính đã đề xuất miễn, giảm, giãn thuế, phí, tiền thuê đất với tổng quy mô khoảng 1,1 triệu tỷ đồng, tạo điều kiện cho DN phục hồi sản xuất, kinh doanh. Ông đánh giá như thế nào về hiệu quả các chính sách này?
Khoảng 1,1 triệu tỷ đồng được miễn - giảm - giãn trong 5 năm là mức hỗ trợ tài khóa rất lớn, góp phần quan trọng vào phục hồi sản xuất, kinh doanh sau cú sốc dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng và giai đoạn nhu cầu yếu 2022 - 2023.
Về dòng tiền, việc gia hạn, giảm các sắc thuế gián thu/thuế trực thu và tiền thuê đất giúp DN giảm áp lực thanh khoản tức thời, nhờ đó duy trì biên lợi nhuận dương trong bối cảnh doanh thu phục hồi chậm. Với DNNVV, mỗi đồng hoãn/giảm thuế trong chu kỳ thấp điểm có tác dụng như “vốn lưu động không lãi suất”, cho phép trả lương, giữ lao động lành nghề, thanh toán nhà cung ứng đúng hạn.
Về mặt hỗ trợ cầu thị trường, các chính sách giảm gánh nặng thuế - phí trực tiếp nới không gian tiêu dùng/đầu tư của hộ gia đình và DN, qua đó hỗ trợ tổng cầu. Đây là tác dụng “gián tiếp” nhưng bền bỉ, đặc biệt ở các ngành hàng tiêu dùng nhanh, vật liệu, du lịch - dịch vụ.
Bên cạnh đó, gói hỗ trợ tài khóa quy mô lớn gửi đi tín hiệu ổn định, “chung tay chia sẻ rủi ro” từ Nhà nước để DN mạnh dạn nối lại kế hoạch, mở rộng sản xuất thay vì phòng thủ cực đoan.
Ông nhận xét gì về việc thực thi các chính sách này?
Nhiều chính sách được ban hành nhanh, đồng bộ giữa thuế, phí và tiền thuê đất, “đánh trúng” bài toán chi phí cố định của DN. Đối tượng của chính sách rộng gồm DN chịu ảnh hưởng nặng (du lịch, vận tải, lưu trú, ăn uống), cùng các khu vực DNNVV/hộ kinh doanh, đều được thụ hưởng theo các điều kiện rõ ràng. Việc gia hạn/giảm theo chu kỳ có thông điệp sớm, giúp DN chủ động kế hoạch tài chính.
Tuy nhiên, vẫn còn điểm hạn chế từ phía cộng đồng DN. Trước hết là tình trạng bất đối xứng trong tiếp cận thông tin. Theo đó, một bộ phận DN nhỏ ở địa bàn xa trung tâm nắm chính sách chậm, lúng túng thủ tục hồ sơ. Bên cạnh đó, chi phí tuân thủ vẫn cao với DN siêu nhỏ. Trong bối cảnh nhân sự kế toán mỏng, việc “tiết kiệm thuế” nhưng “tăng chi phí thời gian” làm giảm biên lợi nhuận thực tế. Mặt khác, ưu đãi theo ngưỡng doanh thu/lợi nhuận đôi khi tạo động cơ kìm tăng trưởng quy mô để “giữ ưu đãi”, làm méo tín hiệu đầu tư dài hạn. Bên cạnh đó, cùng một mức miễn/giảm nhưng tác dụng khác nhau giữa ngành thâm dụng lao động với ngành thâm dụng vốn/công nghệ.
Luật Thuế TNDN (sửa đổi) quy định áp thuế TNDN 15% đối với DN có tổng doanh thu năm không quá 3 tỷ đồng; 17% đối với DN có tổng doanh thu năm từ trên 3 tỷ đồng đến không quá 50 tỷ đồng. Nghị quyết 198/2025/QH15 về một số cơ chế chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân với nhiều ưu đãi thuế cho DN. Ông đánh giá như thế nào về những chính sách ưu đãi thuế này?
“Bộ đôi” Luật Thuế TNDN 2025 và Nghị quyết 198/2025/QH15 tạo khung ưu đãi có chủ đích. Thuế suất thuế TNDN giảm đáng kể cùng với cơ chế chính sách miễn thuế TNDN 3 năm cho DNNVV, miễn thuế TNDN 2 năm và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo đối với thu nhập từ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của DN khởi nghiệp sáng tạo, công ty quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo và tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia/nhà khoa học trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo là những chính sách ưu việt và có ý nghĩa với cộng đồng DN.
Về chính sách giảm thuế suất cho DN theo doanh thu, cách “xếp bậc theo doanh thu” giúp định tuyến ưu đãi đúng về phía DN nhỏ, đối tượng có năng lực tích lũy yếu, chi phí vốn cao.
Chính sách miễn, giảm sâu cho thu nhập từ hoạt động đổi mới sáng tạo giảm rủi ro “đốt vốn” giai đoạn đầu, khuyến khích đầu tư R&D, thử nghiệm mô hình, đồng thời thu hút chuyên gia. Đây là cách tiếp cận hệ sinh thái, không chỉ DN khởi nghiệp, mà cả quỹ, trung gian, trung tâm đổi mới đều được khích lệ.
Sự kết hợp Luật Thuế TNDN và Nghị quyết 198/2025/QH15 cho thấy định hướng dài hạn về giảm thuế suất theo quy mô và ưu đãi chiều sâu theo tính chất hoạt động. Điều này gia cố lòng tin, tạo điều kiện cho DN chuyển dịch từ sinh tồn sang tích lũy và mở rộng.
Để chính sách “đi vào cuộc sống”, vẫn cần lưu ý một số điểm. Đó là, cần chuẩn hóa nguồn dữ liệu (kê khai - hóa đơn điện tử - tài khoản ngân hàng) và có các công cụ kiểm tra rủi ro để hạn chế lạm dụng mà vẫn không “làm khó” DN tuân thủ tốt.
Thủ tướng Chính phủ mới đây đã chỉ đạo tiếp tục mở rộng tài khóa ở mức hợp lý để hỗ trợ nền kinh tế. Ông đề xuất gì về việc thực hiện chủ trương này?
“Mở rộng tài khóa hợp lý” không phải là chi tiêu nhiều nhất, mà là dùng đúng công cụ - đúng thời điểm - đúng đối tượng. Trọng tâm vài năm tới nên duy trì ưu đãi, có cơ chế ưu đãi giảm dần để DN vượt ngưỡng không bị mất trắng phần ưu đãi, chuyển ưu đãi từ “giảm gánh nặng hiện tại” sang kích hoạt đầu tư cho năng suất tương lai (R&D, số hóa, xanh hóa), giảm mạnh chi phí tuân thủ bằng một cửa, số hóa và đo lường - công khai hiệu quả để kịp thời điều chỉnh. Như vậy, tài khóa vừa hỗ trợ trước mắt, vừa bồi đắp năng lực cạnh tranh dài hạn.
Từ góc nhìn DN, tôi đề xuất một số nhóm giải pháp vận hành cụ thể. Một là, xây dựng khung ưu đãi giảm dần, theo đó, khi DN vừa vượt mốc 3 tỷ đồng và 50 tỷ đồng, phần thu nhập tương ứng chỉ tăng thuế dần trong một “vùng đệm” (ví dụ 10 - 15% biên độ quanh ngưỡng).
Hai là, ưu đãi đi kèm nghĩa vụ số hóa theo hướng gắn ưu đãi thuế suất thấp/miễn giảm với mức độ số hóa kế toán, hóa đơn, báo cáo. Nhà nước có thể đồng tài trợ 50 - 70% chi phí phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử năm đầu (mức trần), đổi lại DN cam kết khai, nộp. lưu trữ số. Điều này vừa giảm chi phí tuân thủ, vừa tăng tính minh bạch để ưu đãi đến đúng nơi.
Ba là, ưu đãi theo cụm liên kết và chuỗi giá trị. Chuyển một phần ưu đãi từ “đối tượng đơn lẻ” sang cụm ngành/chuỗi (ví dụ: dệt may, da giày xanh; linh kiện điện tử; du lịch xanh…). Miễn, giảm phí hạ tầng, thuê đất, phí logistics theo dự án chung của cụm, kèm yêu cầu chia sẻ tài sản dùng chung (kho bãi, xử lý nước thải, phòng thí nghiệm, trung tâm kiểm định). Cách này hiệu quả hơn so với ưu đãi dàn trải.