Ảnh Internet |
Ngân hàng nhỏ đua lãi suất vì sợ siết tín dụng
Theo khảo sát, một số ngân hàng có quy mô nhỏ hoặc tầm trung đã niêm yết kịch trần lãi suất 5,5% tại các kỳ hạn dưới 6 tháng. Bảng lãi suất cập nhật ngày 2/3 của Ngân hàng Phương Đông (OCB) cho thấy, bên cạnh việc chạy đua lãi suất kỳ hạn dài từ 12 - 36 tháng lên tới 8%/năm, thì ngân hàng này đã điều chỉnh bảng lãi suất huy động kỳ hạn 3 - 5 tháng lên kịch trần 5,5%, tiền gửi kỳ hạn 1 - 2 tháng mức lãi suất lần lượt 5,3 - 5,4%.
Tương tự, tại Ngân hàng Quốc dân (NCB), lãi suất tiền gửi tiết kiệm trực tuyến cũng đã kịch trần 5,5%/năm ở các kỳ hạn ngắn. Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), lãi suất huy động đã kịch trần 5,5%/năm tại kỳ hạn 5 tháng; các kỳ hạn từ 1 - 4 tháng dao động từ 4,9 - 5,2%/năm.
Trong khi đó, nhiều ngân hàng lớn vẫn đứng bên lề “cuộc đua”. Lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại cổ phần đang bỏ khá xa lãi suất của các ngân hàng có vốn nhà nước ở các kỳ hạn dài. Với kỳ hạn 24 tháng, Vietcombank trả lãi 6,2%/năm trong khi nếu gửi tại các ngân hàng khác như OCB hay Eximbank, khách hàng được nhận lãi suất tới 8%/năm.
Cũng tại Vietcombank, khung lãi suất ngắn hạn vẫn được niêm yết ở mức thấp hơn các ngân hàng nhỏ khác, lãi suất 1 tháng chỉ ở mức 4,5%, 2 tháng là 4,6% và 3 tháng là 4,8%. Lãi suất kỳ hạn từ 1 - 3 tháng tại BIDV cũng chỉ dao động từ 4,8 - 5,2%, thấp hơn 0,3 - 0,4% so với các ngân hàng nhỏ khác.
Giới phân tích nhận định, nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đua này là những đồn đoán liên quan đến sửa đổi Thông tư 36 dự kiến tỷ lệ vốn cho vay trung và dài hạn trên tổng vốn ngắn hạn giảm từ 60% về 40%. TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính (Học viện Tài chính, Bộ Tài chính) nhận định, khả năng lớn là thị trường dự báo Thông tư 36 thế nào cũng được sửa đổi, vấn đề chỉ là mức độ và các ngân hàng nhỏ có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn ở mức cao đang chuẩn bị trước cho tình huống này. Do đó, việc các ngân hàng đua tăng lãi suất huy động là một sự đón đầu thông tin sửa Thông tư 36.
Không dễ ổn định lãi suất
Theo TS. Nguyễn Đức Độ, trong bối cảnh hiện nay, nhà điều hành sẽ phải tìm cách để ổn định lãi suất. Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ có được những chính sách nới lỏng nhất định để bảo đảm thanh khoản và hạ lãi suất ngắn hạn. Với lãi suất dài hạn, vị chuyên gia này cho rằng hơi khó để giữ ổn định, vì lãi suất dài hạn sẽ phụ thuộc vào khả năng huy động của các ngân hàng và chỉ có thể kéo lãi suất dài hạn xuống khi người dân chấp nhận gửi tiền dài hạn. Ngoài ra, việc giải quyết vấn đề đô la hóa, tỷ giá ổn định cũng là yếu tố quan trọng để hạ lãi suất dài hạn.
Ông Bùi Quốc Dũng, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ thuộc Ngân hàng Nhà nước khẳng định, năm 2016, trong bối cảnh thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động theo hướng không thuận lợi, áp lực huy động vốn trái phiếu chính phủ tiếp tục tăng cao và nhu cầu tín dụng trung, dài hạn gia tăng thì áp lực lên mặt bằng lãi suất là rất lớn.
Ông Dũng phân tích, lạm phát được dự báo quanh mức 4 - 5% trong năm 2016 so với mức chỉ 0,6% của năm 2015 cho thấy, kỳ vọng lạm phát năm nay cao hơn nhiều so với năm trước, qua đó gián tiếp tạo áp lực lên mặt bằng lãi suất huy động. Cùng với đó, mục tiêu tăng trưởng trong năm nay là 6,7%, cao hơn mức tăng trưởng 6,68% của năm ngoái và cao hơn so với bình quân cả giai đoạn 2011 - 2015 (5,88%), phản ánh nhu cầu vốn tín dụng năm 2016 sẽ tiếp tục gia tăng.
Bên cạnh đó, ông Bùi Quốc Dũng cũng cho rằng, việc lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm tăng mạnh và dự kiến nhu cầu huy động vốn từ trái phiếu chính phủ trong năm 2016 cao hơn năm 2015 sẽ tạo áp lực rất lớn lên mặt bằng lãi suất trung và dài hạn.
Trong điều kiện thách thức như vậy, Ngân hàng Nhà nước khẳng định sẽ tiếp tục kiên định điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, thực hiện linh hoạt việc bơm tiền ra/hút tiền về, thông qua nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác để điều tiết thanh khoản hợp lý hỗ trợ các tổ chức tín dụng có điều kiện cung ứng vốn thông suốt cho nền kinh tế. Đồng thời, điều hành lãi suất liên ngân hàng ở mức phù hợp tương quan với lãi suất thị trường, bảo đảm thanh khoản cho toàn toàn hệ thống, qua đó tạo điều kiện ổn định mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng nhưng vẫn kiểm soát được lạm phát và không gây áp lực lên tỷ giá.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ tiếp tục có các giải pháp, công cụ điều hành mới, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và điều kiện của thị trường tiền tệ nhằm nâng cao khả năng điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ. Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp như vậy, việc thực hiện mục tiêu ổn định và phấn đấu giảm nhẹ mặt bằng lãi suất trung và dài hạn trong năm 2016 là khả thi.