Bộ trưởng Bộ Công Thương giải trình, làm rõ vấn đề lãng phí điện tái tạo

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Giải trình, làm rõ ý kiến một số đại biểu Quốc hội (ĐBQH) nêu trong phiên thảo luận về kinh tế - xã hội và thực hành tiết kiệm chống lãng phí, liên quan tới ngành Công Thương ngày 1/6, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định, cơ chế giá cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp như khung giá hiện hành là phù hợp với giá thế giới và thực tiễn trong nước.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên

Theo ông Diên, thời gian qua, điện tái tạo, trong đó có điện gió và điện mặt trời đã giá triển khá mạnh do nhu cầu điện năng tăng cao do cơ chế, chính sách khuyến khích của Nhà nước khá hấp dẫn. Tuy nhiên, lại có nghịch lý là nơi có tiềm năng về nắng và gió, lại là nơi có phụ tải thấp, vì thế, muốn sử dụng nguồn năng lượng này phải đầu tư khá lớn cho hệ thống truyền tải hoặc lưu trữ điện.

Mặt khác, để duy trì thường xuyên, an toàn hệ thống điện và phát huy hiệu quả năng lượng tái tạo thì phải có một số nguồn điện nền ổn định, nghĩa là phải có khả năng phát liên tục 24/24 để bù đắp.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, ở nước ta, điện than, điện dầu, điện khí, sinh khối và cả thủy điện cũng được xem là nguồn điện nền, một số nước thì còn có cả điện hạt nhân. Bởi vậy, dù có đắt hơn, phát thải carbon có nhiều hơn, trong ngắn hạn chúng ta chưa có nguồn hoặc giải trình pháp khác thay thế nên các nguồn điện chạy bằng than, bằng dầu, bằng khí vẫn được duy trì, huy động để bảo đảm an toàn hệ thống điện. Về lâu dài, năng lượng tái tạo có thể là nguồn điện năng có giá rẻ nhất nếu chưa tính các phí truyền tải và lưu trữ điện.

Về cơ chế tính giá năng lượng tái tạo, ông cho biết, cơ sở pháp lý là căn cứ vào Luật Điện lực, Luật Giá và các nghị định Chính phủ, Bộ Công Thương đã xây dựng khung giá được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của 102 nhà máy điện mặt trời, 109 nhà máy điện gió đã ký hợp đồng mua bán điện. Quá trình tính toán, thẩm định khung giá, so sánh số liệu của Cơ quan Năng lượng quốc tế (GIZ) tư vấn xét duyệt đang được tư vấn, đặc biệt là thực hiện đúng quy trình lấy ý kiến Bộ Tài chính, Ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vấn về kết quả thẩm định khung giá.

“Vì vậy, có thể khẳng định cơ chế giá cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp như khung giá hiện hành là phù hợp với giá thế giới và thực tiễn trong nước”, ông Diên nhấn mạnh.

Về vấn đề xử lý đối với dự án điện gió mặt trời không đủ điều kiện tham gia giá FIT, Lãnh đạo Bộ Công Thương thừa nhận có sự lãng phí nếu các dự án đã đầu tư mà không được khai thác, sử dụng.

Tuy nhiên, ông chỉ ra, hầu hết chủ đầu tư các dự án đã chạy đua với thời gian nên bỏ qua hoặc bỏ sót các khâu, các thủ tục theo quy định của pháp luật, thậm chí là vi phạm các quy định của pháp luật chuyên ngành để hưởng giá FIT.

Ông cũng nhấn mạnh, chính sách giá FIT đã hết thời hiệu, thể hiện ngay trong quyết định của Thủ tướng, “chứ không phải dừng đột ngột”. Theo đó, để không lãng phí, không bị xem là hợp thức hoá cái sai, thậm chí vi phạm pháp luật, rất cần chủ trương của các cấp có thẩm quyền, nỗ lực của chủ đầu tư và sự vào cuộc của các ngành, chính quyền địa phương.

“Vì vậy, đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm cho chủ trương và cơ chế tháo gỡ, để có cơ sở chỉ đạo giải quyết dứt điểm vấn đề, tránh lãng phí nguồn lực và hài hòa lợi ích”, Bộ trưởng Bộ Công Thương đề xuất.

Cập nhật thông tin về tình hình tháo gỡ vướng mắc cho các dự án điện tái tạo chuyển tiếp, ông Diên cho hay, cả nước có 85 nhà máy điện tái tạo đã ký hợp đồng mua bán điện nhưng không đủ điều kiện giá FIT với tổng công suất là 4.736 MW. Để huy động nguồn điện này, căn cứ Luật Giá, Luật Điện lực và các nghị định liên quan, Chính phủ đã chỉ đạo các phòng ban hành Thông tư 15, Quyết định 21 quy định phương pháp xác định và khung giá áp dụng cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp.

Bộ cũng đã có nhiều văn bản đôn đốc các chủ đầu tư hoàn thiện thủ tục chỉ đạo, hướng dẫn EVN khẩn trương phối hợp với nhà đầu tư thỏa thuận thống nhất giá điện để sớm đưa các dự án này vào vận hành.

Tuy nhiên, đến ngày 30/3/2023, tức là sau 2 tháng quyết định khung giá có hiệu lực, chỉ có 1 nhà đầu tư đến nộp hồ sơ. Qua nhiều nỗ lực, đến ngày 31/5, đã có 59/85 nhà máy có công suất 3.389 MW, chiếm 71,6 % số dự án đã nộp hồ sơ tới Tập đoàn Điện lực Việt Nam, trong đó có 50 dự án đang được đề xuất giá tạm thời bằng 50 % khung giá.

“Lý do chúng tôi được biết, đối với các chủ đầu tư chậm hồ sơ đó là họ không muốn đàm phán với EVN trong khung giá mà Bộ Công Thương ban hành, khi cho rằng là vì giá thấp và có thể chưa hoàn thiện các thủ tục pháp lý hoặc nhà máy ở vị trí khó khăn về truyền tải điện”, ông Diên lý giải.

Chuyên đề