Thu hút vốn ngoại phát triển hạ tầng: Những rào cản cần tháo gỡ

0:00 / 0:00
0:00

(BĐT) - Nhu cầu đầu tư hạ tầng để tạo bàn đạp cho mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững của Việt Nam là rất lớn với dự kiến cần huy động khoảng 245 tỷ USD cho các dự án trọng điểm trong giai đoạn 2025 - 2030. Theo một số ý kiến tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) thường niên 2025, nhiều nhà đầu tư, quỹ đầu tư ngoại có sự quan tâm ngày càng lớn đến dự án hạ tầng tại Việt Nam, nhưng vẫn còn rào cản cần tháo gỡ để các dự án hấp dẫn, khả thi hơn trong thu hút dòng vốn quốc tế dài hạn.

Cần khuyến khích và tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực như phát điện, bất động sản công nghiệp, hạ tầng sân bay quốc tế, trung tâm logistics và cảng biển mang tầm quốc tế. Ảnh: Lê Tiên
Cần khuyến khích và tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực như phát điện, bất động sản công nghiệp, hạ tầng sân bay quốc tế, trung tâm logistics và cảng biển mang tầm quốc tế. Ảnh: Lê Tiên

Chia sẻ một trong những rào cản đầu tư vào hạ tầng là thủ tục hành chính, ông Trần Tuấn Phong, Trưởng Nhóm công tác Cơ sở hạ tầng của VBF, Luật sư thành viên VILAF dẫn chứng, để phát triển một dự án hạ tầng từ quy mô nhỏ (một dự án năng lượng tái tạo 50 MW với tổng vốn đầu tư khoảng 100 triệu USD) đến dự án quy mô lớn hơn (chẳng hạn, dự án điện khí 1.500 MW với tổng vốn đầu tư khoảng 2,5 tỷ USD), việc đưa dự án vào quy hoạch quốc gia mất 3 - 5 năm; thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án mất 1 - 1,5 năm; thủ tục lựa chọn nhà đầu tư mất 1 - 2 năm; thủ tục trình, phê duyệt nghiên cứu khả thi và đàm phán bộ tài liệu hợp đồng dự án (như hợp đồng mua bán điện) mất 2 - 3 năm; đàm phán bộ tài liệu hợp đồng tín dụng và xin các chính sách huy động vốn mất 1 - 2 năm. Như vậy, thời gian phát triển một dự án mới mất từ 8 - 12 năm (nhiều dự án kéo dài đến 15 năm hoặc không thực hiện được do không có chính sách huy động tài chính quốc tế quy mô lớn).

Từ đó, ông Trần Tuấn Long khuyến nghị Chính phủ cần xem xét rút gọn các thủ tục hành chính và quy trình phát triển dự án, giảm thời gian phát triển dự án xuống 1-2 năm đối với dự án quy mô nhỏ và 3 - 5 năm đối với dự án quy mô lớn hơn; có chính sách ưu tiên thực hiện các dự án gắn với khả năng và điều kiện huy động vốn rõ ràng; có cơ chế áp dụng các điều kiện đột phá cho dự án gắn với tiến độ triển khai và hoàn thành, đặc biệt là điều kiện tín dụng cho các tổ chức tài chính thường cấp tới 70 - 80% tổng vốn đầu tư dự án.

Cũng theo đại diện Nhóm công tác Cơ sở hạ tầng, Việt Nam đã đạt được vị thế thị trường mới nổi, tạo điều kiện thu hút dòng vốn đáng kể từ các quỹ đầu tư toàn cầu và các nhà đầu tư tổ chức. Việt Nam cần chủ động giải quyết các vấn đề về khả năng tiếp cận thị trường vốn, cấp vốn dự án hạ tầng, có chính sách đột phá như mô hình trung tâm tài chính quốc tế, xử lý thiết thực các vấn đề của các tổ chức tài chính quốc tế (như về thời hạn vay trả nợ, ngoại hối/đồng tiền thanh toán, thay đổi chính sách/pháp luật ảnh hưởng đến dòng tiền và khả năng trả nợ của dự án, giải thích pháp luật Việt Nam và cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế).

Nhận định nhu cầu đầu tư hạ tầng vượt quá khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước, ông Trần Anh Đức, Đồng trưởng Nhóm công tác Đầu tư và Thương mại, Luật sư Thành viên cấp cao A&O Shearman khuyến nghị, Chính phủ cần có quy định chi tiết để tạo ra cơ chế khuyến khích nhà đầu tư trong nước và nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào hạ tầng, nhất là các dự án quan trọng quốc gia. Bảo lãnh và các cam kết hỗ trợ từ Chính phủ là chìa khóa để giảm rủi ro, hạ chi phí vốn và thu hút nhà đầu tư dài hạn. Theo đó, cần có cơ chế hiệu quả và minh bạch, có tiêu chí lựa chọn dự án, trần nghĩa vụ bảo lãnh và biện pháp kiểm soát rủi ro cho Chính phủ.

14.jpg
Nhà đầu tư đề xuất rút gọn thủ tục hành chính để tăng cường thu hút vốn ngoại vào các dự án phát triển hạ tầng. Ảnh: Song Lê

Ông Mark Gillin, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham Việt Nam), Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc AIM nhấn mạnh vai trò then chốt của quan hệ đối tác công tư (PPP). Theo đại diện AmCham, bằng cách thiết lập các khuôn khổ minh bạch, có thể dự đoán và đủ điều kiện tín dụng, Việt Nam có thể thu hút thêm nguồn vốn tư nhân cho phát triển hạ tầng, đồng thời phân bổ công bằng rủi ro giữa khu vực công và tư. Các lĩnh vực PPP nên ưu tiên bao gồm hành lang logistics kết nối các trung tâm công nghiệp với cảng biển, hạ tầng hàng hóa hàng không và cảng biển, hệ thống truyền tải năng lượng tái tạo, cùng mạng lưới giao thông công cộng đô thị. Các quan hệ đối tác thành công trong những lĩnh vực này sẽ giúp Việt Nam đáp ứng nhu cầu hạ tầng, giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Nhóm công tác Cơ sở hạ tầng cũng cho rằng, để bảo đảm việc phân bổ nguồn lực hiệu quả, đầu tư công cần tập trung vào các dự án hạ tầng then chốt nhưng gặp khó khăn về hiệu quả thương mại do dòng doanh thu chưa ổn định và rủi ro đặc thù của quốc gia ở mức cao. Đồng thời, khuyến khích và tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài nhằm bổ sung cho nguồn vốn công. Các lĩnh vực ưu tiên nên bao gồm phát điện, bất động sản công nghiệp, hạ tầng sân bay quốc tế, trung tâm logistics và cảng biển mang tầm quốc tế. Do các dự án hạ tầng có thời gian thực hiện dài, Chính phủ cần tiếp tục thiết lập một môi trường đầu tư đáng tin cậy và ổn định, xây dựng niềm tin cho nhà đầu tư.

Kết nối đầu tư