Tăng thời gian làm thêm tối đa mỗi tháng từ 40 giờ lên 60 giờ

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Giờ làm thêm mỗi tháng của người lao động được nâng từ 40 giờ lên tối đa 60 giờ, khống chế 300 giờ mỗi năm, theo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Từ ngày 1/4, người lao động được làm thêm tối đa 60 giờ mỗi tháng. Ảnh Quỳnh Danh
Từ ngày 1/4, người lao động được làm thêm tối đa 60 giờ mỗi tháng. Ảnh Quỳnh Danh

Quy định này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/4, sau khi thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa nhất trí thông qua nghị quyết về số giờ làm thêm trong một năm, một tháng của người lao động trong bối cảnh phòng chống Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/4/2022 (riêng quy định về số giờ làm thêm trong một năm từ ngày 1/1/2022), đến hết 31/12/2022.

Các trường hợp không áp dụng giờ làm thêm gồm: Người lao động từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi; người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng xa, biên giới, hải đảo; lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Giờ làm thêm trong một tháng là vấn đề còn nhiều ý kiến trái chiều. Theo Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh, có 2 luồng quan điểm tương ứng với 2 phương án thiết kế nới trần giờ làm thêm mỗi tháng.

Phương án thứ nhất cho rằng việc nâng trần thời gian làm thêm lên mức không quá 72 giờ là quá cao mà cơ quan soạn thảo chưa đưa ra căn cứ thuyết phục nên đề nghị chỉ nên nâng trần thời gian làm thêm không quá 40 giờ mỗi tháng lên không quá không quá 60 giờ.

Ý kiến trên cũng được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lựa chọn để thực hiện mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tái tạo sức lao động, an toàn lao động của người lao động.

Phương án hai là đồng tình nâng trần thời gian làm thêm trong một tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ theo đề xuất của Chính phủ và cho rằng đây là mức hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng là quan điểm được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam ủng hộ.

Do còn hai loại ý kiến khác nhau, Thường trực Ủy ban Xã hội đã xin ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hai phương án này. Kết quả, 13/18 đồng chí tán thành phương án 1, 5/18 đồng chí tán thành phương án 2. Thường trực Ủy ban Xã hội tiếp thu ý kiến của đa số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chuyên đề