Sửa Luật Quản lý nợ công để mở rộng nguồn lực phát triển

(BĐT) - Đại diện các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp đánh giá cao Dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) với nỗ lực thay đổi thể chế, quy trình để việc thực hiện các quy định về nợ công thông thoáng hơn.

Dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) đề xuất giảm yêu cầu thủ tục để thúc đẩy quy trình huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài. Ảnh: Lê Tiên
Dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) đề xuất giảm yêu cầu thủ tục để thúc đẩy quy trình huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài. Ảnh: Lê Tiên

Bên cạnh đó, quy định Chính phủ công khai kế hoạch nợ công 3 năm tạo điều kiện cho các nhà tài trợ đánh giá sớm để chuẩn bị các chương trình hỗ trợ. Ở khía cạnh khác, nhiều ý kiến đề xuất cần “nới tay” hơn trong việc cho vay thông qua giảm phí vay lại, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận khoản vay từ nguồn trái phiếu chính phủ.

Gỡ các vướng mắc cấp bách

Luật Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 đã được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2017, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2018. Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn triển khai Luật, trong đó nội dung cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài được hướng dẫn tại Nghị định số 97/2018/NĐ-CP.

Tại Hội nghị lấy ý kiến Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công (2017); Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 97/2018/NĐ-CP về cho vay lại, ông Nguyễn Quốc Phương, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết, qua hơn 7 năm thực hiện, Luật Quản lý nợ công đã đi vào cuộc sống, quản lý nhà nước về nợ công được thống nhất một đầu mối, phù hợp với thông lệ quốc tế, huy động đầy đủ các nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển và trả nợ gốc của NSNN; nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của các cơ quan sử dụng nợ công; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay, trả nợ công.

Thời gian qua, việc sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, thực hiện chủ trương phân cấp, phân quyền theo ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị được thể chế hóa tại Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, việc tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, việc Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung nhiều luật tại Kỳ họp thứ 9, trong đó có Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu... đã tác động đến việc thực hiện các văn bản pháp luật, trong đó có Luật Quản lý nợ công.

Thực hiện chủ trương rà soát các quy định pháp luật, đảm bảo đồng bộ trong cải cách thể chế, Bộ Tài chính đã tổ chức rà soát, tổng kết đánh giá việc triển khai Luật Quản lý nợ công. Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ về chủ trương đưa Luật sửa đổi, bổ sung vào Chương trình lập pháp 2025, đồng thời xây dựng bộ hồ sơ dự án Luật theo thể thức rút gọn và dự kiến sẽ trình Chính phủ để trình Quốc hội Khóa XV tại Kỳ họp thứ 10.

Mục tiêu sửa đổi là đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; triển khai thể chế hóa các chủ trương theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đổi mới công tác xây dựng pháp luật theo Nghị quyết số 66-NQ/TW, đồng thời xử lý một số vướng mắc mang tính cấp bách trong quá trình tổng kết thi hành Luật.

Ông Hoàng Hải, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) chia sẻ một số điểm hạn chế tại Luật Quản lý nợ công năm 2017, trong đó có việc thủ tục chuẩn bị đầu tư và thực hiện chương trình, dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài dài hơn so với sử dụng vốn trong nước; quy trình đàm phán vay vốn, ký, sửa đổi các điều ước quốc tế về vay nợ kéo dài theo các quy định của Luật Điều ước quốc tế.

Về hạn mức nợ, điểm hạn chế là Luật hiện hành quy định nội dung hạn mức nợ cần trình hai cấp phê duyệt, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; chưa công khai Kế hoạch vay, trả nợ hàng năm và Chương trình quản lý nợ công 3 năm…

Do đó, Dự thảo Luật lần này đề xuất các phương án khắc phục những điểm hạn chế trên, giảm yêu cầu thủ tục để thúc đẩy quy trình huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, đơn giản hóa nội dung đề xuất vay, tập trung vào nhu cầu vay để Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch huy động và lựa chọn khoản vay phù hợp.

Đồng thời, Dự thảo Luật đưa ra các quy định xử lý vướng mắc trong thời gian qua, trong đó, bổ sung quy định thời hạn Thủ tướng phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ công hằng năm để đồng bộ triển khai dự toán ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư công, kế hoạch vay, trả nợ hằng năm khi được các cấp thẩm quyền phê chuẩn, phê duyệt. Bỏ quy định tỉnh lấy ý kiến chấp thuận của Bộ Tài chính về điều kiện, điều khoản của trái phiếu chính quyền địa phương, phân cấp cho UBND cấp tỉnh báo cáo HĐND cấp tỉnh phê duyệt đề án phát hành.

Dự thảo Luật cũng đề xuất các nội dung giao Chính phủ hướng dẫn, gồm: lập, triển khai và công bố Chương trình quản lý nợ công 3 năm, Kế hoạch vay, trả nợ hằng năm; thực hiện cơ chế cho vay lại chia sẻ rủi ro giữa Bộ Tài chính và cơ quan cho vay lại, trong đó có nội dung phí dự phòng rủi ro; thực hiện bảo đảm tiền vay đối với đơn vị sự nghiệp công lập; quy định chi tiết việc công bố thông tin, số liệu về nợ công…

Đảm bảo huy động nguồn lực cho phát triển bền vững

Góp ý cho Dự thảo Luật, ông Nguyễn Xuân Nam, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đánh giá cao các điểm mới tại khoản 11 Điều 1 về vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với quy định: “Các bộ, cơ quan trung ương, UBND tỉnh, UBND thành phố trực thuộc trung ương, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, công ty con của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ gửi đề xuất khoản vay cho Bộ Tài chính”.

Theo đó, Dự thảo Luật đã bỏ bước đề xuất dự án thay bằng đề xuất khoản vay, đồng thời, cho phép các công ty con được trực tiếp tiếp cận khoản vay, chịu trách nhiệm về khoản vay với thủ tục thực hiện đơn giản.

Tuy nhiên, ông Nam cho biết, phí cho vay lại hiện nay khá cao, với quy định mức phí dự phòng rủi ro cho vay lại “không quá 1,5%/năm trên dư nợ vay” và “phí quản lý cho vay lại bằng 0,25%/năm tính trên dư nợ vay lại”. Đây có thể là gánh nặng cho doanh nghiệp và các khoản vay ưu đãi trở thành không ưu đãi. Với mức phí cao như vậy cùng với lãi suất vay ODA không còn thấp, doanh nghiệp sẽ buộc phải cân nhắc vay thương mại thay vì vay ưu đãi. “Do đó, cần sửa đổi quy định về các mức phí cho vay lại để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận hơn”, ông Nam nói.

Bên cạnh đó, Phó Tổng giám đốc EVN đề xuất, cần có quy định cho phép doanh nghiệp được vay lại nguồn vốn được huy động từ trái phiếu chính phủ. “Nguồn vốn huy động được qua kênh trái phiếu chính phủ khá lớn, song dùng không hết. Do đó, cần mở ra quy định cho phép doanh nghiệp vay lại nguồn vốn này để sử dụng hiệu quả đồng vốn”, ông Nam nói.

Từ góc độ tổ chức quốc tế, ông Đỗ Việt Dũng, cán bộ cấp cao Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho rằng, Dự thảo Luật đã thể hiện nỗ lực thay đổi thể chế quản lý nợ công với quy trình thông thoáng hơn, song ông Dũng cũng cùng quan điểm về việc cần giảm phí vay. “Nên nhìn vào bản chất của vấn đề từ rủi ro tín nhiệm bằng cách quy định mức phí cao với doanh nghiệp được đánh giá tín nhiệm thấp và ngược lại”, ông Dũng nói.

Bên cạnh đó, theo ông Dũng, cần có quy định về bảo lãnh từ hỗ trợ cho vay để triển khai các dự án đầu tư phát triển theo khía cạnh đầu tư vào đổi mới sáng tạo, đầu tư cho chất xám theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW. Đồng thời, cân nhắc các công cụ bảo lãnh của bên thứ 3 như WB, theo đó WB có thể là đơn vị thẩm định và chịu rủi ro về khoản vay.

Từ góc độ Ban soạn thảo, ông Nguyễn Quốc Phương cho biết, sẽ tiếp thu và trình cấp thẩm quyền ý kiến từ phía doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế, đồng thời tiếp tục đề xuất các nội dung sửa đổi theo định hướng khơi thông nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. “Với định hướng trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần nguồn lực lớn cho đầu tư, phát triển. Nhu cầu về vốn là lớn, song cũng cần cân nhắc tính toán cả trung hạn và dài hạn, để các khoản vay được sử dụng hiệu quả, đóng góp tích cực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững”, ông Phương nhấn mạnh.

Kết nối đầu tư