Chương trình Tập huấn của VCCI và VBCSD cho các cơ quan truyền thông về phát triển bền vững lần thứ 7 với chủ đề "Hướng tới phát triển bền vững và mục tiêu Net Zero thông qua các giải pháp NbS" ngày 9/8 |
Trong ngành hàng chăm sóc gia đình, bà Lê Thị Hồng Nhi - Phó Tổng giám đốc phụ trách Truyền thông, Đối ngoại và Phát triển bền vững Unilever chia sẻ, để khuyến khích một nền tiêu dùng bền vững, Unilever đã đặt ra sứ mệnh phải chuyển đổi xanh. Năm 2024 là năm đầu tiên Unilever triển khai mô hình ứng dụng công nghệ Rhamno Clean chứa đường ngô lên men nhờ vi sinh vật có lợi với 99,7% phân hủy sinh học để sản xuất nước rửa chén Sunlight - ngành hàng chăm sóc gia đình của Unilever.
Còn trong ngành công nghiệp dược, bà Đào Thúy Hà - Thành viên HĐQT, Phó Tổng giám đốc Công ty CP Traphaco cho biết, Công ty CP Công nghệ cao Traphaco (Traphaco CNC) là một thành viên tích cực trong Dự án phát triển dược liệu bền vững GreenPlan của Traphaco, với nhiều vùng trồng/thu hái dược liệu theo chuẩn GACP-WHO; trong đó có vùng trồng cúc hoa vàng tại thôn Đông Trại, xã Lương Tài, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Với diện tích 21,719 m2, vùng trồng này được xây dựng theo mô hình 4 nhà (nhà hộ dân, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước) và áp dụng kỹ thuật trồng trọt tiên tiến để đảm bảo chất lượng cao. Traphaco CNC hỗ trợ người dân trong việc trồng, chăm sóc và thu hái cúc hoa vàng theo quy trình nghiêm ngặt, từ đó nâng cao thu nhập và đời sống cho bà con nông dân. Cúc hoa vàng sau khi thu hái được sơ chế kịp thời tại nhà máy, bảo đảm duy trì toàn vẹn chất lượng và tạo ra nguồn nguyên liệu đạt chuẩn GACP-WHO. Nhờ đó, Traphaco CNC chủ động nguồn cung dược liệu cho các sản phẩm như Thuốc Sáng mắt, Trà Cúc hoa - Đông trùng hạ thảo…
Thực tế còn rất nhiều mô hình NbS đang được triển khai rất đa dạng, phong phú ở những ngành hàng khác như mô hình của Công ty CP Greenfeed Việt Nam…
Tuy nhiên, theo bà Phạm Thị Cẩm Nhung - Điều phối Chương trình Khí hậu - Năng lượng (WWF) Việt Nam, trong tổng ngân sách tài chính hàng năm đầu tư cho các giải pháp NbS trên toàn cầu, phía khu vực công vẫn là chủ yếu (chiếm tới 86%), tương đương 133 tỷ USD; trong khi khu vực tư nhân mới chiếm 14%, tương đương 18 tỷ USD. Dự báo đến năm 2030, nhu cầu vốn toàn cầu cho các giải pháp NbS lên tới 8.000 tỷ USD.
“Sở dĩ khu vực tư nhân có mức đầu tư thấp như vậy, có thể là do sự hạn chế về nhận thức, chưa nhận thấy rõ những lợi ích mang lại vì quá trình triển khai các giải pháp NbS thường kéo dài, tiêu chí chưa rõ ràng cũng như khả năng tiếp cận các nguồn tài chính hỗ trợ”, bà Nhung nhận định.
Đặt vấn đề “đã bao giờ ban quản trị, lãnh đạo doanh nghiệp phát triển bền vững yêu cầu kiểm kê, hạch toán nguồn vốn xã hội, nguồn vốn tự nhiên vào báo cáo phát triển bền vững, ngoài hạch toán tài chính, hay chưa?”, ông Vinh cho rằng, nếu tính đủ 3 nguồn vốn này thì mới xác định được giá trị thật của việc triển khai các giải pháp phát triển bền vững. Chỉ khi có đủ thông tin như vậy thì các nhà đầu tư (kể cả trực tiếp và gián tiếp) mới dễ dàng đưa ra quyết định.
Tại Chương trình Tập huấn của VCCI và VBCSD cho các cơ quan truyền thông về phát triển bền vững lần thứ 7 với chủ đề "Hướng tới phát triển bền vững và mục tiêu Net Zero thông qua các giải pháp NbS" diễn ra ngày 9/8, ông Vinh cho biết, nếu tại Hội nghị COP 27, lần đầu tiên các giải pháp dựa vào tự nhiên được đề cập trong quyết định bao trùm thì tại COP 28, đây là điểm sáng được đánh giá cao và tập trung thảo luận bởi các chuyên gia, các tổ chức cũng như các doanh nghiệp. NbS được hiểu là các giải pháp sử dụng các hệ sinh thái và quy trình tự nhiên để giải quyết các thách thức xã hội, kinh tế và môi trường. NbS bảo vệ, phục hồi thiên nhiên, đồng thời mang lại lợi ích kinh tế, xã hội cho con người.
Theo Ngân hàng Thế giới, dự kiến nhóm giải pháp này có thể đóng góp 37% lượng cắt giảm phát thải khí nhà kính vào năm 2030 theo Thỏa thuận Paris, đồng thời mang lại những lợi ích bổ sung như tăng cường khả năng chống chịu, sức phục hồi cho môi trường và hệ sinh thái trước thiên tai. Tại COP 26, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng đã nhấn mạnh quan điểm “mọi hành động ứng phó với biến đổi khí hậu phải dựa vào tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, là chủ thể để phát triển bền vững”. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều cam kết quốc tế, gần đây nhất là Công ước Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal (GBF) 2022 (bảo vệ hệ sinh thái, phục hồi hệ sinh thái bị suy thoái, giảm ô nhiễm, tăng cường tài chính và nguồn lực, bảo vệ loài nguy cấp).
Hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước cũng đang hướng đến việc thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học, tài nguyên thiên nhiên; kinh nghiệm và thông lệ tốt tại doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh tạo ra đồng lợi ích về kinh tế cho doanh nghiệp, phát triển sinh kế của cộng đồng địa phương và đặc biệt là bảo tồn đa dạng sinh học, tài nguyên thiên nhiên tại khu vực doanh nghiệp hoạt động; cũng như cách thức các tổ chức tài chính hỗ trợ các dự án áp dụng NbS.
“Đây tiếp tục là “kim chỉ nam”, phương châm hành động cho các cấp chính quyền, cho người dân, khẳng định trách nhiệm của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, phục hồi tự nhiên”, ông Phạm Hoàng Hải, phụ trách quan hệ đối tác của Ban Thư ký VBCSD đánh giá.
Để thực hiện các giải pháp NbS, ông Hải gợi ý, các doanh nghiệp có thể thực hiện theo 5 bước, gồm: Đánh giá xác định nhu cầu của doanh nghiệp và tài nguyên sẵn có; Xây dựng chiến lược, kế hoạch tích hợp vào chiến lược kinh doanh; Phát triển và triển khai các dự án; Giám sát, đánh giá thực thi; Nâng cao nhận thức - Đạo tạo tập huấn. Qua việc triển khai NbS, lợi ích mà doanh nghiệp nhận được sẽ là nâng cao uy tín, giá trị thương hiệu và trách nhiệm của doanh nghiệp với các vấn đề xã hội; tạo ra các giá trị tích hợp, đồng lợi ích; tăng cường quản trị rủi ro và hiệu quả tài chính của doanh nghiệp.