Đề xuất sửa đổi cơ chế tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội

(BĐT) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến Dự thảo Nghị định của Chính phủ về cơ chế tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để thay thế Quyết định số 180/2002/QĐ-TTg về quy chế quản lý tài chính đối với NHCSXH và và Quyết định số 30/2015/QĐ-TTg sửa đổi Quyết định 180.

Đề xuất sửa đổi cơ chế tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội. Ảnh minh họa
Đề xuất sửa đổi cơ chế tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội. Ảnh minh họa

Bộ Tài chính cho biết, thời gian qua, việc triển khai thực hiện Quyết định số 180/2002/QĐ-TTg và Quyết định số 30/2015/QĐ-TTg đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tế. Đó là quy định về trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, xử lý chênh lệch thu chi, cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý, chế độ kiểm toán, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và NHCSXH;...

Việc xây dựng, ban hành Nghị định thay thế Quyết định số 180/2002/QĐ-TTg và Quyết định số 30/2015/QĐ-TTg nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công..... Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 05/QĐ-TTg ngày 04/01/2023; đồng thời nhằm xử lý các vướng mắc, bất cập trong quá trình hoạt động của NHCSXH thời gian qua; qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực tài chính cho NHCSXH để thực hiện hiệu quả hơn các chương trình tín dụng chính sách hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo và an sinh xã hội của Nhà nước.

Tại Tờ trình Dự thảo Nghị định, Bộ Tài chính trình Chính phủ sửa đổi, hoàn thiện quy định về vốn điều lệ của NHCSXH. Cụ thể, NHCSXH được NSNN cấp bổ sung vốn điều lệ hằng năm để đạt tỷ lệ tăng trưởng vốn điều lệ bằng kế hoạch tăng trưởng dư nợ tín dụng chính sách tối đa được Thủ tướng Chính phủ giao hằng năm cho NHCSXH.

Ngoài nguồn NSNN nêu trên, NHCSXH được bổ sung vốn điều lệ từ quỹ đầu tư phát triển và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của ngân hàng. Theo đó, định kỳ 03 năm, NHCSXH lập phương án bổ sung vốn điều lệ từ các quỹ này và báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trên cơ sở ý kiến của Bộ Tài chính và ΝΗΝΝ.

Về trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, theo quy định hiện hành, NHCSXH trích lập dự phòng chung bằng 0,75% tính trên dư nợ cho vay, không bao gồm nợ khoanh và nợ quá hạn; quyết định trích lập dự phòng cụ thể trên cơ sở kết quả phân loại nợ và khả năng tài chính của NHCSXH; số dư quỹ dự phòng rủi ro tín dụng tối đa bằng nợ khoanh và nợ quá hạn của ngân hàng.

Với cơ chế phân loại nợ của NHCSXH hiện hành nêu trên, theo báo cáo của NHCSXH đến 30/6/2025, tổng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng là 2.303 tỷ đồng, chỉ chiếm 0,53%/tổng dư nợ; theo đó có thể không đảm bảo đủ nguồn để xử lý rủi ro đối với các khoản nợ xấu của NHCSXH nếu rủi ro xảy ra trên diện rộng do thiên tai, dịch bệnh (theo báo cáo của NHCSXH, với ảnh hưởng của cơn bão Yagi vừa qua, tổng dư nợ bị rủi ro đã lên đến gần 2.400 tỷ đồng).

Từ tình hình trên, để đảm bảo an toàn cho hoạt động, hướng tới trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro tín dụng và phù hợp với tình hình thực tế hoạt động của NHCSXH, Dự thảo Nghị định đề xuất đối với các khoản cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác tại NHCSXH, hằng năm, NHCSXH trích lập và duy trì dự phòng rủi ro tín dụng chung bằng 0,75% tổng dư nợ các khoản vay này. Đối với dự phòng rủi ro tín dụng cụ thể, NHCSXH căn cứ vào tình hình tài chính để xem xét, quyết định mức trích bổ sung dự phòng rủi ro tín dụng cụ thể, đảm bảo tổng số dư dự phòng rủi ro tín dụng đối với các khoản vay này không vượt quá mức cần phải trích lập theo quy định của Thống đốc NHNN.

Đối với các khoản vay NHCSXH thực hiện theo văn bản ủy thác, NHCSXH sử dụng nguồn thu từ hoạt động nhận ủy thác để thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo văn bản ủy thác. Trường hợp văn bản ủy thác không quy định việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, NHCSXH sử dụng nguồn thu từ hoạt động nhận ủy thác để thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng như quy định đối với các khoản cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác tại NHCSXH nêu trên.

NHCSXH có trách nhiệm quản lý riêng dự phòng rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác tại NHCSXH và các khoản vay NHCSXH thực hiện theo văn bản ủy thác.

Về cấp bù chênh lệch lãi suất, theo quy định hiện hành, mức cấp bù CLLS hàng năm đối với NHCSXH được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất hòa đồng các nguồn vốn (có tính đến tỷ lệ tồn ngân tối đa theo quy định của Bộ Tài chính) với lãi suất cho vay và dư nợ cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác theo quy định của pháp luật, việc tính toán theo phương pháp này có thể giảm độ chính xác do phải làm tròn số nhiều lần.

Để khắc phục hạn chế nêu trên, Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành quy định về xác định số cấp bù CLLS của NHCSXH theo phương pháp trực tiếp tương tự như đang quy định đối với ngân hàng phát triển (trên cơ sở chênh lệch dương giữa tổng chi phí cho việc huy động vốn (bao gồm lãi huy động vốn và chi phí phát hành giấy tờ có giá (ngoài lãi) của NHCSXH) với tổng thu từ việc sử dụng vốn khi thực hiện các nhiệm vụ cho vay được cấp bù (bao gồm thu lãi cho vay và thu lãi tiền gửi từ nguồn vốn tồn ngân được cấp bù)); từ đó xác định cụ thể phương thức xác định số cấp bù CLLS hằng năm cho NHCSXH.

Kết nối đầu tư