Áp lực lạm phát tăng cao, hóa giải cách nào?

0:00 / 0:00
0:00
(BĐT) - Động thái tăng lãi suất của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) nhằm kiềm chế lạm phát, xu hướng tăng giá hàng hóa trên thế giới do các bất ổn địa chính trị dai dẳng cho thấy lạm phát tại Việt Nam đối diện với áp lực mới. Do đó, cần những giải pháp kịp thời và linh hoạt để kiểm soát lạm phát, đồng thời hỗ trợ tích cực để doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng 2,09% so với cuối năm 2021, gần gấp 2 lần cùng kỳ các năm 2018 – 2021. Ảnh: Nhã Chi
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng 2,09% so với cuối năm 2021, gần gấp 2 lần cùng kỳ các năm 2018 – 2021. Ảnh: Nhã Chi

Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 tăng 2,09% so với cuối năm 2021, gần gấp 2 lần cùng kỳ các năm 2018 - 2021. Rủi ro lạm phát tăng cao tạo áp lực lớn lên điều hành ổn định kinh tế vĩ mô cả năm 2022, có thể làm giảm hiệu quả các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, xu hướng lạm phát tăng cao đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới cũng tác động đến giá cả hàng hóa tại Việt Nam. Bộ Lao động Mỹ cho biết, trong tháng 3, CPI của nước này tăng 8,5% so với cùng kỳ năm ngoái, mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 12/1981. Số liệu mới nhất từ cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) cho biết, lạm phát tại khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) trong tháng 3 vừa qua đã tăng lên mức kỷ lục 7,5%.

TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Dự báo kinh tế ngành và doanh nghiệp thuộc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia cho rằng, áp lực lạm phát đang tăng lên, trong đó nguy cơ nhập khẩu lạm phát hiện hữu. Chỉ số giá sản xuất (PPI) sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2022 tăng 1,89% so với quý trước; PPI sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 1,09%; PPI nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 1,49%.

“Dữ liệu nghiên cứu cho thấy, PPI tăng cao thường dẫn tới giá tiêu dùng tăng theo với độ trễ khoảng 1,5 quý. Chính vì vậy, chi phí sản xuất tăng dẫn tới giá tiêu dùng thực có thể tăng cao trong các quý tiếp theo là áp lực rất lớn đối với mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 4% của Chính phủ”, ông Thắng cảnh báo.

Theo TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), áp lực lạm phát và chi phí sản xuất tăng nhanh là một trong những rủi ro, gây trở ngại đối với quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam khác với các quốc gia đã tung ra gói kích thích mạnh để phục hồi trong năm 2021. Các nước khác mở cửa sớm, chịu tác động mạnh về biến động địa chính trị khiến lạm phát cao trong quý I và phải có biện pháp mạnh để kìm chế. Với Việt Nam, mặc dù áp lực lạm phát gia tăng song chưa đến mức áp dụng biện pháp mạnh.

Ông Việt kiến nghị, cần sớm có đánh giá chính thức của Chính phủ về nguy cơ nhập khẩu lạm phát và giải pháp ứng phó. Bên cạnh đó, cần kiểm soát tốt nguồn cung, chuỗi cung ứng vật tư, nhiên liệu sản xuất để giảm áp lực lạm phát cũng như giảm rủi ro kinh doanh. Nghiên cứu kịch bản tiếp tục giảm thuế tiêu thụ đặc biệt với xăng dầu khi giá thế giới biến động lớn, cũng như hoãn, giãn việc tăng các sắc thuế, phí nhằm bình ổn giá mặt hàng tiêu dùng khác. Cần quyết liệt và nhanh hơn nữa trong việc thực hiện các gói kích thích kinh tế đã được thông qua.

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, bên cạnh các giải pháp về điều tiết cung cầu hàng hóa, cần tính đến việc có thể tăng lãi suất điều hành để góp phần kiểm soát lạm phát. “CPI hiện vẫn ở mức tương đối thấp song áp lực lạm phát tăng cao là rất lớn. Nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất nên việc giữ nguyên lãi suất điều hành là không dễ dàng. Tôi dự đoán là từ nay đến cuối năm, có thể Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng lãi suất điều hành ở mức 0,5 điểm %”, ông Hiếu nói.

Theo TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế, việc FED tăng lãi suất mạnh gây áp lực với việc giữ ổn định tỷ giá USD/VND, có thể dẫn đến hiện tượng dịch chuyển dòng vốn đầu tư. Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh. “Bài toán về lãi suất điều hành là không dễ dàng, đòi hỏi sự linh hoạt, bám sát tình hình, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa. Điều quan trọng nhất là linh hoạt các giải pháp để điều tiết thanh khoản trên thị trường tiền tệ, nỗ lực hết sức để giữ ổn định lãi suất trong thời gian tới”, ông Thành nói.

Cùng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt với các kịch bản khi có sự thay đổi chính sách tiền tệ mạnh hơn của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới; kết hợp tốt với chính sách tài khóa, bảo đảm ổn định mặt bằng lãi suất và tỷ giá. Cần xây dựng lộ trình và phối hợp thực thi kế hoạch tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý một cách phù hợp, nhịp nhàng, không dồn dập vào một thời điểm. Bên cạnh đó, cần tăng cường truyền thông cùng các biện pháp bình ổn giá nhằm giảm thiểu tâm lý lạm phát và hiện tượng "té nước theo mưa".

Chuyên đề