Nói đến kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của đất nước cũng chính là nói đến mục đích phấn đấu nhất quán trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kỷ nguyên ấy đồng thời là ước vọng nghìn đời của dân tộc, khát khao cháy bỏng của mỗi người dân Việt Nam, đã trở thành giá trị căn bản của tiêu ngữ đặt dưới Quốc hiệu Việt Nam, đó là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Vị thế, cơ đồ nền kinh tế
Theo GS. TS. Tạ Ngọc Tấn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, làm cho cơ đồ, tiềm lực, vị thế của đất nước được nâng lên tầm cao mới, bảo đảm cơ sở bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, trở thành nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Về kinh tế, từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, sau gần 40 năm Đổi mới, quy mô GDP của nước ta đạt 430 tỷ USD vào cuối năm 2023, tăng gấp 96 lần năm 1986, gấp 2,5 lần năm 2011, nằm trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cuối năm 2024, quy mô GDP tiếp tục tăng lên trên 476 tỷ USD, đứng thứ 33 trên toàn cầu. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Năm 2024, tỷ trọng giá trị trong GDP của khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 11,86%, công nghiệp và xây dựng là 37,64%, dịch vụ là 42,36%.
Từ một nước bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã phát triển quan hệ thương mại với hơn 230 nền kinh tế trên thế giới, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2024 ước đạt trên 786 tỷ USD, xuất siêu đạt khoảng 24,7 tỷ USD, trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực mỗi năm 2 triệu tấn, Việt Nam đã vươn lên là một trong ba nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu khoảng 9 triệu tấn gạo, thu về 5,7 tỷ USD. Nửa đầu năm 2025, Việt Nam ghi danh nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Để giữ vững vị thế này, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng thương hiệu gạo quốc gia, đồng thời đẩy nhanh việc thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp, gắn với tăng trưởng xanh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận, đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước. Trong hợp tác đầu tư nước ngoài, tính đến nay, Việt Nam đã thu hút hơn 520 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký, với hơn 42.000 dự án đang hoạt động, có tổng số vốn khoảng 450 tỷ USD, số vốn đã giải ngân lên đến trên 320 tỷ USD. Với việc tham gia 20 hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương, Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới, hội nhập quốc tế toàn diện và sâu sắc nhất…
Trong những năm qua, kết cấu hạ tầng của đất nước được cải thiện không ngừng, tạo nền tảng thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Mới đây, 250 công trình, dự án trọng điểm đã đồng loạt được khánh thành, khởi công trên 34 tỉnh, thành cả nước, chào mừng 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025). Với tổng mức đầu tư gần 1.300 nghìn tỷ đồng, 250 công trình, dự án tạo nên một “Ngày hội công trình” chưa từng có trong lịch sử, lan tỏa niềm tự hào, kết nối và niềm tin đất nước sẽ ngày càng phát triển.
Về văn hóa, xã hội và con người, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2024 xếp thứ 54/143 nước được đánh giá. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,726, xếp thứ 107 trong tổng số 193 quốc gia được xếp hạng, là mức HDI cao trong nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
GS.TS. Tạ Ngọc Tấn cho biết, theo các kết quả nghiên cứu, tổng kết của giới khoa học, có 4 yếu tố chủ yếu như điều kiện cần và đủ để các nước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công bao gồm khoa học - công nghệ, nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, sự ổn định chính trị - xã hội. Các yếu tố này đang hội tụ những điều kiện thuận lợi cho giai đoạn phát triển mới tại Việt Nam.
Niềm tin Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Để xác lập một kỷ nguyên phát triển mới, nước ta đang đồng thời thực hiện 4 đột phá chiến lược, đó là đột phá về thể chế, đột phá về hạ tầng, đột phá về nguồn nhân lực, đột phá về khoa học - công nghệ. Với quyết tâm xây dựng nền kinh tế tự cường, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định, khoa học - công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số là “đột phá quan trọng hàng đầu”. Hàng loạt mục tiêu cùng các giải pháp quyết liệt được nêu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, khẳng định quyết tâm cao nhất đưa đất nước ta lên nấc thang phát triển mới.
Thực tế, vị thế Việt Nam trong lĩnh vực KHCN vẫn ở mức khiêm tốn khi năm 2024, nước ta xếp thứ 44/133 quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST). Một cách đo lường khác từ Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cho biết, số lượng bằng sáng chế đăng ký quốc tế theo Hiệp ước Hợp tác sáng chế của Việt Nam (năm 2022) đạt 25 - 30 bằng sáng chế. Trong cùng thời kỳ, nhiều quốc gia kỳ ghi nhận thành quả từ sáng tạo KHCN cao hơn Việt Nam, như Singapore có hơn 1.200 bằng sáng chế; Thái Lan khoảng 160 - 200; Malaysia khoảng 200 - 300;...
Việt Nam có đủ điều kiện để phát triển vươn tầm
GS.TS. Tạ Ngọc Tấn, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vừa trở thành cơ hội to lớn cho sự phát triển nhanh, bền vững, vừa tạo ra thách thức không nhỏ cho các quốc gia, dân tộc, nhất là nước đang phát triển, còn hạn chế về nguồn lực và khả năng làm chủ công nghệ lõi, công nghệ mới. Chỉ nước nào biết nắm bắt cơ hội, có khả năng đáp ứng yêu cầu về nguồn lực, có chiến lược và sách lược hợp lý để đồng hành với các bước đi, vận dụng được thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì nước đó mới có thể phát triển.
Với cơ đồ, tiềm lực, trong đó nguồn lực mọi mặt, nhất là nguồn lực con người được tăng cường, vị thế và uy tín quốc tế được nâng cao qua gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, với một nền chính trị vững mạnh, bền chặt và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Việt Nam có đủ điều kiện để tham gia vào tiến trình chung, cập nhật mọi thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vì mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Giáo sư Hà Tôn Vinh nhìn nhận, nền kinh tế Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản… đã vượt lên từ quyết tâm đổi mới bắt đầu từ KHCN, nền kinh tế Việt Nam đang hội tụ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” cho một thay đổi thời cuộc. Theo Giáo sư Hà Tôn Vinh, năm 1945, Việt Nam đã làm nên Kỷ nguyên độc lập; năm 1975, nước ta có Kỷ nguyên thống nhất đất nước; năm 1986 là kỷ nguyên Đổi mới và đến nay, quy mô nền kinh tế nước ta đã ở vị trí thứ 33 thế giới, xứng đáng thực hiện một cuộc cách mạng mới để làm nên Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. “Trong các đột phá chiến lược của Việt Nam, chúng ta đã xác định rất đúng, rất trúng khi chọn KHCN làm đòn bẩy để hiện thực hóa khát vọng vươn tầm. Tôi tin những quyết sách đột phá sẽ mở ra vận hội mới cho nhiều chủ thể và tạo nên sự thay đổi trong tương lai không xa”, ông Vinh nhận định.
Chủ tịch Hội đồng Trường đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, GS. TSKH. Nguyễn Đình Đức chia sẻ, Nghị quyết 57-NQ/TW đã soi rõ con đường vươn lên của dân tộc Việt Nam. Bài học từ nhiều nền kinh tế cho thấy, KHCN là chìa khóa để quốc gia hưng thịnh và giàu mạnh, và Việt Nam cũng không còn con đường nào khác, làm chủ các công nghệ cao, công nghệ lõi chính là “chiếc đũa thần” để tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc tạo dựng tương lai dân tộc. Tinh thần của Nghị quyết là để đất nước giàu mạnh, hùng cường, mỗi cá nhân, tổ chức phải có khát vọng làm việc, sáng tạo và cống hiến. “Các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo cần tạo điều kiện để từng cá nhân có mong muốn được làm việc, được sáng tạo và cống hiến thì phải được tạo điều kiện để làm việc, sáng tạo và cống hiến hết mình, đồng thời được hưởng xứng đáng với năng lực của họ”, ông Đức mong mỏi.
Trong một thông điệp mới đây, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhận định, KHCN đang phát triển nhanh chưa từng có trên phạm vi toàn cầu. Nhiều công nghệ đột phá thay đổi cuộc chơi, phá hủy các hệ thống, tư duy cũ, thay đổi cách phát triển, cách cạnh tranh. Trong bối cảnh này, không tự cường là phụ thuộc và thu lợi rất ít. Một quốc gia muốn trở thành cường quốc thì phải là cường quốc KHCN. Một quốc gia muốn trở thành nước phát triển thì phải là một quốc gia có KHCN phát triển.
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định, đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo… Đến năm 2045, KHCN, ĐMST và chuyển đổi số phát triển, là nhân tố quan trọng đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế phát triển, có thu nhập cao.