|
Tháo gỡ điểm nghẽn để bứt phá
Theo PGS.TS Hồ Sỹ Hùng, cam kết Net Zero 2050 và các chiến lược kinh tế số quốc gia, đang tạo ra một lộ trình rõ ràng. VBF trở thành cơ chế phối hợp thực chất giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Đối tác phát triển để “hiến kế”, tham mưu cho Chính phủ các giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư, đưa các định hướng của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống một cách hiệu quả nhất và đẩy nhanh chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Diễn đàn VBF 2025 với chủ đề "Doanh nghiệp đồng hành với Chính phủ chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số" mang một thông điệp chiến lược. Đây không chỉ là một diễn đàn đối thoại thông thường, mà là một diễn đàn của sự cam kết. Cộng đồng doanh nghiệp, cả trong nước và quốc tế, cam kết là đối tác tin cậy, chủ động mang đến nguồn lực, công nghệ, và chuyên môn quốc tế để cùng Chính phủ giải quyết các bài toán lớn của quốc gia, hiện thực hóa các mục tiêu phát triển.
Để thúc đẩy chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, theo đại diện VCCI, hiện có bốn điểm nghẽn cần Chính phủ chỉ đạo tháo gỡ.
Một là đột phá về hoàn thiện thể chế và nâng cao chất lượng thực thi. Đây là yêu cầu cấp bách, là tinh thần của Nghị quyết 66 về công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Doanh nghiệp cần một khung khổ pháp lý ổn định, minh bạch, có thể dự đoán được và nhất quán trong thực thi giữa các địa phương . Các kiến nghị của chúng tôi (đã được gửi tới Thủ tướng và các Bộ) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết dứt điểm các vướng mắc về thuế, hoàn thuế VAT, hải quan, và đất đai…
Hai là điểm nghẽn về cơ chế cho "Chuyển đổi Xanh" để thực thi Quy hoạch điện VIII và Nghị quyết 70. Để hiện thực hóa "Chuyển đổi Xanh", chúng ta cần một bước đột phá về cơ chế cho năng lượng . Các rào cản về "tính khả thi tài chính" (bankability) cho các dự án điện quy mô lớn (LNG, điện gió ngoài khơi) cần được ưu tiên tháo gỡ . Tài chính xanh và thị trường tín chỉ carbon phải sớm đi vào thực chất.
Ba là, về hạ tầng "mềm" cho "Kỷ nguyên Số" theo tinh thần Nghị quyết 57. "Kỷ nguyên Số" đòi hỏi một hành lang pháp lý linh hoạt. Các vấn đề về quản lý dữ liệu, an ninh mạng, và đơn giản hóa thủ tục cấp phép cho thương mại điện tử là chìa khóa . Đặc biệt, "cơn khát" nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng số, là thách thức lớn nhất cần sự chung tay của cả Chính phủ và doanh nghiệp , như tinh thần Nghị quyết 71 về giáo dục đã chỉ rõ.
Bốn là, khơi thông dòng vốn để phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết 68. Mọi chuyển đổi đều cần nguồn vốn. Chúng tôi kiến nghị Chính phủ đẩy nhanh các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI niêm yết, và phát triển các sản phẩm tài chính đa dạng để khơi thông dòng vốn cho hạ tầng và sản xuất.
Nhận thức rõ về vai trò đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp, VCCI nhấn mạnh hai trụ cột song hành. Một là sự tham gia then chốt của cộng đồng doanh nghiệp FDI, đại diện bởi các hiệp hội doanh nghiệp quốc tế, mang đến nguồn vốn lớn, công nghệ cao, và các chuẩn mực toàn cầu. Hai là, sức mạnh nội sinh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam - vốn là nền tảng để hấp thụ công nghệ, kết nối chuỗi cung ứng và lan tỏa phát triển bền vững, như tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết 138, 139 của Chính phủ đã khẳng định.
“Liên minh VBF với sự tham gia của VCCI và các Hiệp hội doanh nghiệp quốc tế, sẽ là cầu nối thực chất, "gỡ vướng" và hậu thuẫn cho sự liên kết chặt chẽ giữa hai khối doanh nghiệp này, để cùng nhau tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, đại diện VCCI cam kết.
3 nhóm giải pháp ưu tiên cho giai đoạn phát triển mới
Để thúc đẩy một Việt Nam xanh, năng động và sẵn sàng trong kỷ nguyên mới, theo ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng thư ký kiêm Trưởng ban Pháp chế VCCI, đòi hỏi tư duy cải cách mạnh mẽ, hành động quyết liệt và sự đồng hành thực chất giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Theo đó, ba nhóm giải pháp trọng tâm cần được ưu tiên triển khai trong giai đoạn phát triển tới, đó là thể chế minh bạch, công bằng, hiệu quả; Doanh nghiệp xanh, tài chính xanh, thị trường xanh; Chính quyền địa phương chủ động, có trách nhiệm và được trao quyền thực sự.
Cụ thể, về thể chế, theo ông Tuấn, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực then chốt như đầu tư, đất đai, môi trường và xây dựng. Việc số hóa toàn diện quy trình, công khai tiến độ xử lý và thiết lập cơ chế một cửa liên thông sẽ giúp giảm thiểu chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả phục vụ. Song song đó, cần cải thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra bằng cách áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, tránh chồng chéo giữa các cơ quan và giảm thiểu can thiệp không cần thiết. Một nền tảng dữ liệu quốc gia thống nhất về doanh nghiệp và lịch sử tuân thủ cũng cần được xây dựng để phục vụ công tác quản lý, kết nối giữa các bộ, ngành và địa phương, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận chính sách thuận lợi hơn.
Muốn thúc đẩy đầu tư và phát triển doanh nghiệp xanh, ông Tuấn chỉ ra rằng, việc hình thành một hệ sinh thái tài chính xanh hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy chuyển đổi xanh. Nhà nước cần phát triển thị trường tín chỉ các-bon, trái phiếu xanh, đồng thời tạo cơ chế bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tiếp cận các khoản vay xanh. Các ngân hàng thương mại nên được khuyến khích xây dựng danh mục sản phẩm tài chính xanh và áp dụng ưu đãi lãi suất phù hợp. Cùng với đó, cần ban hành bộ tiêu chí quốc gia về dự án đầu tư xanh, làm cơ sở cho việc cấp phép, ưu đãi thuế, đất đai và tiếp cận vốn. Các dự án sử dụng công nghệ sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất tuần hoàn cần được ưu tiên hỗ trợ.
“Riêng với doanh nghiệp nhỏ và vừa, lực lượng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, cần có các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn chuyển đổi xanh, đào tạo về ESG và hỗ trợ chứng nhận môi trường. Mô hình “vườn ươm doanh nghiệp xanh” có thể được thí điểm tại các địa phương trọng điểm để tạo hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực xanh”, ông Tuấn gợi ý.
Chuyển đổi xanh thành công khi được triển khai thực chất từ cơ sở, do đó, cần lồng ghép các chỉ số đánh giá như Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) vào công cụ điều hành và đánh giá hiệu quả quản lý của chính quyền địa phương. Việc công bố kế hoạch hành động xanh hàng năm, gắn với chỉ tiêu định lượng được, sẽ tạo động lực cải cách rõ ràng và minh bạch. Đồng thời, cơ chế phân bổ ngân sách cần có yếu tố khuyến khích. Có thể thí điểm “ngân sách linh hoạt” hơn cho các địa phương có kết quả chuyển đổi xanh tích cực, nhằm tái đầu tư vào các sáng kiến cải thiện môi trường và hỗ trợ doanh nghiệp xanh.
“Để bảo đảm chính sách đi vào thực tiễn, các tỉnh nên thành lập tổ công tác chuyển đổi xanh với sự tham gia của đại diện doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, chuyên gia và chính quyền, qua đó thúc đẩy mô hình hợp tác công - tư hiệu quả và đồng thuận hơn trong hoạch định và thực thi chính sách”, ông Tuấn khuyến nghị.