Nhóm Nghiên cứu kinh tế và thị trường tại PwC Việt Nam cho biết, đến nay, triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn tích cực với mức tăng trưởng GDP năm 2023 dự kiến trên 5% (theo Fitch, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)).
Nửa đầu năm 2023, GDP của Việt Nam tăng 3,72% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi cả khu vực nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ đều có xu hướng tích cực, thì khu vực công nghiệp và xây dựng chịu ảnh hưởng nặng nề từ những bất ổn chính trị trên toàn thế giới.
Cụ thể, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng ổn định. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp nửa đầu năm 2023 tăng 3,14% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
Đối với lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới. Giá trị tăng thêm toàn ngành nửa đầu năm 2023 tăng 0,44% so với cùng kỳ, là mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011 - 2023, đóng góp 0,15 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế.
Theo báo cáo của PwC, lĩnh vực dịch vụ đã cho thấy rõ sự phục hồi nhờ các chính sách kích thích tiêu dùng và mở cửa trở lại nền kinh tế. Giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 tăng 6,33% so với cùng kỳ, cao hơn mức tăng 1,18% và 4,53% của cùng kỳ năm 2020 và 2021.
So sánh tăng trưởng GDP nửa đầu năm của Việt Nam so với cùng kỳ |
PwC cho biết, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 1/2007, một đặc điểm đáng chú ý của nền kinh tế Việt Nam trong thập kỷ qua là sự liên kết chặt chẽ và ngày càng tăng với các nền kinh tế khác, thông qua thương mại và đầu tư. Hai trong số các động lực chính cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trước đây là: mức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và năng lực xuất khẩu của quốc gia.
Trong nửa đầu năm 2023, mặc dù xuất siêu 12,1 triệu USD nhưng tổng giá trị xuất khẩu giảm khoảng 12% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoại trừ nông nghiệp, hóa chất, sản phẩm giấy và phương tiện vận tải/phụ tùng, hầu hết các lĩnh vực đều có xuất khẩu hàng hóa giảm từ 10 - 20% so với cùng kỳ. Xuất khẩu chững lại do ảnh hưởng bởi sức tiêu thụ tại các thị trường xuất khẩu chính giảm (mức giảm giá trị xuất khẩu của Mỹ, Hàn Quốc, EU và ASEAN lần lượt là 22%, 10%, 10% và 9% so với cùng kỳ). Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Việt Nam có thặng dư thương mại với các thị trường phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản, trong khi thâm hụt thương mại được quan sát thấy trong thương mại với các nước/khu vực mới nổi bao gồm Trung Quốc và ASEAN. Trong khi tỷ trọng thặng dư thương mại lớn với EU là từ điện thoại và linh kiện và máy móc thiết bị, thì xuất siêu với Mỹ chủ yếu do nông sản đóng góp.
Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng đầu của Việt Nam (33%), tiếp theo là Hàn Quốc (16%). Hầu hết các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ hai thị trường này là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện và máy móc thiết bị do các công ty Trung Quốc và Hàn Quốc đặt cơ sở sản xuất và đầu tư tại Việt Nam.