Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Đại hội XIV sẽ là mốc lịch sử đánh dấu khát vọng đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc. Đó không chỉ là sự kiện chính trị quan trọng mà còn là thời điểm để Đảng ta tiếp tục khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sự kiên định trong việc định hướng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Những chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, các quan điểm, tư duy đột phá trong dự thảo văn kiện chính trị Đại hội XIV đã phác họa rõ nét con đường mà Việt Nam sẽ đi, hướng tới tương lai thịnh vượng và bền vững.
Tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bối cảnh mới
Thế giới hiện nay được định hình bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0). Cùng với đó là những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, xung đột địa chính trị và sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia. Việt Nam, với vị thế là một nền kinh tế đang phát triển và hội nhập sâu rộng, vừa phải nắm bắt cơ hội để bứt phá, vừa phải đối phó với những rủi ro tiềm ẩn.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, để phát triển bền vững, Việt Nam không thể đi theo lối mòn mà phải có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược dài hạn. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao. Đây không chỉ là khát vọng mà còn là mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Tư duy đột phá này được thể hiện rõ nét qua việc Đảng không chỉ tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế mà còn coi trọng phát triển văn hóa, con người, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển toàn diện, hài hòa và bền vững là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Với vai trò là người đứng đầu Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có nhiều chỉ đạo quan trọng, mang tính định hướng chiến lược. Một điểm nhấn trong các chỉ đạo này là việc kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Công tác này không có vùng cấm, không có ngoại lệ, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài. Việc xử lý nghiêm các vi phạm đã khẳng định bản lĩnh, sự quyết tâm của Đảng trong việc làm trong sạch bộ máy.
Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đặc biệt quan tâm đến việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tổng Bí thư thường xuyên nhấn mạnh, "ý Đảng, lòng dân" phải hòa quyện làm một. Sự đồng lòng của toàn dân là sức mạnh vô địch, là nguồn lực to lớn để Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Ông cũng chỉ đạo phải quan tâm hơn nữa đến công tác dân vận, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, giải quyết kịp thời những bức xúc, tạo sự đồng thuận xã hội.
Quan điểm, tư duy đột phá
Nội dung cốt lõi trong Dự thảo Văn kiện chính trị Đại hội XIV được coi là “kim chỉ nam” cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước, thể hiện rõ quan điểm, tư duy đột phá của Đảng. Những điểm mới tại Dự thảo Văn kiện là sự bổ sung, phát triển, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ nhất, tư duy về phát triển nhanh và bền vững. Đảng ta nhấn mạnh, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xã hội và bảo đảm an sinh xã hội. "Nhanh" phải dựa trên chất lượng, hiệu quả, đổi mới sáng tạo và khoa học - công nghệ. "Bền vững" không chỉ là về môi trường mà còn về mặt xã hội, bảo đảm công bằng, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Tư duy này phản ánh sự chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ sang mô hình dựa trên tri thức, công nghệ và sáng tạo. Điều này phù hợp với xu hướng toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, nơi trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số và công nghệ xanh đang định hình các nền kinh tế tiên tiến. Việc nhấn mạnh "nhanh" và "bền vững" đòi hỏi Việt Nam phải đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), giáo dục, cơ sở hạ tầng công nghệ (5G, AI); thúc đẩy sản xuất thông minh, dịch vụ số hóa; giảm ô nhiễm, bất bình đẳng, tạo sự phát triển lâu dài.
Thứ hai, tư duy về khơi dậy sức mạnh nội lực. Dù hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, Đảng ta vẫn xác định nội lực, bao gồm con người, tài nguyên, truyền thống văn hóa, là yếu tố quyết định. Trong đó, con người được đặt ở vị trí trung tâm, là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Tư duy này khẳng định sự phát triển bền vững của Việt Nam không thể chỉ dựa vào các yếu tố bên ngoài (như đầu tư nước ngoài hay viện trợ…) mà phải xuất phát từ chính nội lực của quốc gia. Con người, với tri thức, kỹ năng và bản sắc văn hóa, được coi là tài sản quý giá nhất. Truyền thống văn hóa, với các giá trị như đoàn kết, cần cù và sáng tạo, là nguồn lực tinh thần để vượt qua khó khăn. Việc tập trung vào con người đòi hỏi phải khơi dậy sức mạnh nội lực như: cải cách giáo dục, đào tạo kỹ năng công nghệ cao (AI, big data, blockchain); bảo tồn văn hóa, củng cố bản sắc và gắn kết xã hội.
Thứ ba, tư duy về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Dự thảo văn kiện nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một nền kinh tế có khả năng chống chịu tốt trước những biến động bên ngoài.
Trong bối cảnh thế giới đối mặt với nhiều bất ổn như xung đột địa chính trị, khủng hoảng chuỗi cung ứng và biến động kinh tế toàn cầu, việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro từ các cú sốc bên ngoài. Điều này không có nghĩa là tự cô lập mà là xây dựng một nền kinh tế có sức mạnh nội tại, đủ khả năng cạnh tranh và thích ứng. Theo đó, Việt Nam cần tập trung vào các lĩnh vực như: phát triển công nghệ cao, năng lượng tái tạo, nông nghiệp thông minh; miễn thuế cho doanh nghiệp nhỏ, khuyến khích R&D; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Thứ tư, tư duy về quản trị quốc gia hiện đại. Dự thảo văn kiện tập trung vào việc xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, vì nhân dân phục vụ.
Quản trị quốc gia hiện đại là yếu tố then chốt để bảo đảm hiệu quả thực thi các chính sách phát triển. Một hệ thống hành chính liêm chính, chuyên nghiệp không chỉ giúp nâng cao niềm tin của người dân mà còn tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang cạnh tranh để thu hút các tổ chức công nghệ hàng đầu thế giới (theo Nghị quyết số 57-NQ/TW). Tư duy này đòi hỏi phải thúc đẩy cải cách hành chính, số hóa dịch vụ công, tăng minh bạch; giảm quan liêu, tham nhũng; nâng cao niềm tin và đồng thuận xã hội.
Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, những định hướng này không chỉ thể hiện khát vọng đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc vào năm 2045, mà còn khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc cân bằng giữa đổi mới và kế thừa, giữa hội nhập quốc tế và phát huy nội lực.
Bốn tư duy đột phá trong Dự thảo Văn kiện chính trị Đại hội XIV thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa tầm nhìn dài hạn và các giải pháp thực tiễn, phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế. Những tư duy này không chỉ kế thừa các giá trị cốt lõi của Đảng, như định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy sức mạnh đại đoàn kết, mà còn bổ sung các yếu tố mới như đổi mới sáng tạo, quản trị hiện đại và phát triển bền vững, phản ánh sự nhạy bén của Đảng trong việc nhận diện cơ hội và thách thức của kỷ nguyên mới, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng 4.0 và biến đổi khí hậu.
Hành trình hướng tới các cột mốc lịch sử - 100 năm thành lập Đảng (năm 2030) và 100 năm thành lập nước (năm 2045) - sẽ là minh chứng cho sự kiên định và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, Việt Nam sẽ vững bước trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển, khẳng định vị thế của một quốc gia cường thịnh, hạnh phúc trên trường quốc tế.
Một số chỉ tiêu phát triển đất nước
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 đặt mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Một số chỉ tiêu cụ thể như sau:
Về kinh tế
- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD.
- Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.
- Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%.
- Tổng đầu tư xã hội bình quân đạt 33 - 35% GDP; nợ công không quá 60% GDP.
- Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt 50%.
- Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm.
- Giảm tiêu hao năng lượng tính trên đơn vị GDP ở mức 1 - 1,5%/năm.
Về xã hội
- Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,74.
- Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%.
- Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống dưới 20%.
Về môi trường
- Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%.
- Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%.
- Giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính.
- 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường.
- Tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3 - 5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.