Thả cá chép tiễn ông Táo về trời là văn hóa tâm linh truyền thống của người Việt vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm |
Ông Táo - Người ghi nhật ký
Nói “thời xưa” cho có vẻ… xưa chứ thực ra cho đến ngày giải phóng miền Nam, nhiều gia đình ở vùng quê Quảng Ngãi vẫn còn dùng ông Táo. Trong tập quán của người Việt thì mấy cục đất sét đem nung lên, đặt chung trong một cái bếp, chia đều ba góc, làm chỗ để bắc nồi lên nấu, cũng được gọi là “ông” - ông Táo.
Sự kính trọng trong cách gọi ấy, có lẽ người ta dựa vào chức năng của ba cục đất nung này. Ông Táo luôn gắn với đời sống vật chất và cả tâm linh của người Việt. Đó là nơi mẹ ta lui cui nhóm bếp vào mỗi sớm mai, là nơi cha ta hơ bàn tay buốt giá sau mỗi buổi chiều lạnh cóng từ đồng ruộng về, nơi có tiếng reo “cơm sôi bớt lửa”, nơi chứng kiến bao cảnh vui buồn của mỗi nếp nhà: “No cũng ngày ba bữa, đói cũng đỏ lửa ba lần”.
Ông Táo là vật vô tri nhưng lại chứng kiến và can dự vào tất cả những thăng trầm của mỗi gia đình. Nhà giàu thì Táo có thể “thơm tho” với những chiếc nồi tú hụ cá thịt, nhà nghèo thì Táo oằn lưng gánh gồng với những sắn cùng khoai. Nhưng dù có giàu hay nghèo gì, Táo cũng nhận lãnh trách nhiệm là duy trì ngọn lửa của sự sống để cho từng tế bào xã hội lớn lên, để cho quốc gia hưng thịnh. Táo như là người ghi nhật ký trung thành nhất về những sự kiện diễn ra trong năm của từng nhà, nói như ngôn ngữ bây giờ thì Táo cũng chơi blog hay chơi facebook vậy. Bởi thế, vào mỗi dịp cuối năm, đúng ngày 23 tháng Chạp, nhà nào cũng đưa ông Táo về trời bằng một nồi chè và xôi để ông “báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch trong năm” đồng thời “đề đạt nguyện vọng” của gia chủ với Ngọc Hoàng. Không một gia đình nào thời xưa, dù địa chủ hay bần nông mà dám bỏ qua lễ cúng chè xôi vào dịp cuối năm này.
Trong tập quán của người Việt thì mấy cục đất sét đem nung lên, đặt chung trong một cái bếp, chia đều ba góc, làm chỗ để bắc nồi lên nấu được gọi là ông Táo
Ký ức tuổi thơ
Thuở nhỏ, tôi hay tò mò xem cha tôi cúng “đưa ông Táo” vào rạng sáng 23 tháng Chạp. Đêm trước đó, mẹ tôi thường thức thật khuya để cà đỗ xanh và chuẩn bị đường cùng nếp. Gọi “cà đỗ”, chắc lớp trẻ bây giờ không mấy người biết khái niệm này. Đỗ xanh được phơi thật khô, cho vào chiếc vò sành, đợi đến đêm 22 tháng Chạp là lấy ra “cà”. Dụng cụ để cà gồm một chiếc bình bằng gốm da sần, to bằng trái dừa, bên trong cũng đựng đầy hạt đỗ, chủ yếu cho nó nặng bình và một chiếc mâm bằng gỗ. Đỗ được đổ vào mâm, dùng tay tỳ đè chiếc bình gốm ấy, rồi lăn đi lăn lại cho đến khi các hạt đỗ trong mâm vỡ đôi là được.
Gà gáy canh một, coi như ông Táo đã xong công việc cuối cùng của năm là nấu chín nồi chè và xôi. Hai món này được múc ra chén (cho chè) và đĩa (cho xôi). Tôi không nhớ bày lên mâm cúng ấy là mấy chén chè mấy đĩa xôi, chỉ biết là mình có nhiệm vụ đứng chầu rìa một bên, đợi cha sai vặt, lúc thì lấy nước ngoài giếng đổ vô li làm nước “tráng miệng” trên mâm cúng, khi thì lấy cái bật lửa để đốt nhang.
Xong lễ đưa ông Táo, tôi có nhiệm vụ bưng bê tất cả xôi chè xuống bàn ăn và cả nhà quây quần bên những đĩa xôi, chén chè ấy. Có lẽ quanh năm đói khát, mấy khi được ăn chè và xôi nên có cảm giác rất lạ, nhất là mẹ tôi lại thêm vào bữa ăn ấy những câu chuyện hoang đường chung quanh ông Táo khiến chén chè, đĩa xôi lúc bấy giờ đậm màu huyền hoặc.
Sáng ngày 23 tháng Chạp, những bà mẹ quê đi chợ. Trên đường đi, việc đầu tiên là mang ba ông Táo cũ ấy ra đầu làng, bỏ vào chỗ gốc gáo. Lũ trẻ con rất sợ mỗi khi đi ngang qua những chỗ này. Nhìn những chiếc bình vôi, ông Táo nằm chỏng chơ nơi gốc gáo, trong tôi thường dậy lên cái cảm giác phế hoang, pha niềm xót thương lẫn ghê rợn. Trên đường về, các bà mẹ không quên mua ông Táo mới. Ba cục đất được nặn nắn nót vuông vức, bên trên “đầu” các ông Táo ấy bao giờ cũng có độ cong để khi đặt nồi lên khỏi bị gập ghềnh. Nhà bấy giờ lại có ông Táo mới, mặt ông nào cũng đỏ au màu gạch nung. Lại bắt đầu của một năm để tiếp tục chứng kiến những vui buồn của gia chủ.
Sau thời ông Táo bằng đất sét, người ta chuyển sang bằng kiềng sắt. Những bà mẹ quê không còn làm cái việc là mang ông Táo ra gốc gáo đầu làng nữa nhưng lệ cúng ngày 23 tháng Chạp thì vẫn duy trì. Sau giai đoạn kiềng sắt là đến lượt bếp gas và điện. Lệ cúng “đưa ông Táo” được những gia đình giàu có bây giờ làm rất rình rang. Họ mua cả ô tô, nhà lầu để “hóa kiếp” trong lễ cúng. Tiếng tanh tách của những hạt đỗ vỡ ra trên mâm gỗ ngày nào, giờ không còn nghe nữa. Những nồi chè, đĩa xôi thuở ấy, giờ cũng chỉ còn thơm lừng trong ký ức.
Dẫu vẫn biết thời gian đã làm đổi thay nhiều thứ, trong đó có việc tiễn ba ông Táo đất nung vào quá vãng, nhưng sao lòng tôi lại cứ thương hoài mỗi đêm 23 giá rét của tháng Chạp từng năm.